VỀ TỪ “LÀ” TRONG TIẾNG VIỆT[1]
Nguyễn Vân Phổ
Abstract
Vietnamese linguists have proposed various
arguments to describe “LÀ” as a verb, copula, connective, relational word,
particle, and most recently as a syntactic operator specializing in demarcating
Theme - Rheme. However, their attempts to describe its meaning have not been
sufficiently detailed or convincing.
In this article, the author demonstrates that
“LÀ” actually acts as a predicate/verb while still carrying out the function of
a Theme - Rheme demarcator. Additionally, it serves as a preposition in
sentences expressing the process of speaking and thinking. In terms of meaning,
“LÀ” is a relative predicate. The verb “LÀ” differs from action, state, and
existence predicates in that it does not directly describe an entity undergoing
transitivity or intransitivity (i.e., it lacks thematic structure). Nor does it
directly describe what occurs in the objective world. Instead, it provides
information about the class, attributes, quantity, and position of the object
in the relationship established by the speaker to aid the listener in
identifying the object. Alternatively, it indicates the speaker's
interpretations of the state of affairs.
Keywords: là, copula, theme-rheme demarcator, preposition, relational word,
connective word, particle
1. Đặt vấn đề
LÀ là một từ đặc biệt quan trọng
trong tiếng Việt do khả năng xuất hiện của nó trong mọi bối cảnh nói năng (tần
số xuất hiện chỉ sau từ của và có). Từ LÀ không phải là vấn đề mới trong giới Việt ngữ học.
Trần Trọng Kim (et al) cho LÀ là “động từ”, có nghĩa “thế này” (eg. “Người là một vật trong vạn vật”);
là “liên từ” để thay rằng đặt sau biết, nghĩ, tưởng hoặc thay thì “làm cho mạnh tiếng đứng trước” (eg.
“Bên này là núi…”); ngoài ra, LÀ kết hợp với những tiếng khác
để tạo thành “quán ngữ liên từ” (eg. cùng
là, hay là, cũng là, vì là, v.v.) [11: 134]. Lê Văn Lý, tương tự, cho LÀ là động tự nối kết, và phụ tự
LÀ trong nói là, nghĩa là “do động tự mà ra” [2: 138].
Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê cho LÀ là trợ từ, “tương đương với dấu “=”, có vai trò phân cách “tiếng chính
với giải từ” (eg.: “Hiện nay ta chỉ có một cách tự vệ là thuật ngoại giao và
chính sách đối ngoại”) và phân cách “chủ từ với thuật từ” hoặc “chủ đề với chủ
từ” (eg. “Đẹp nhất là bức họa này”). Ngoài ra còn một LÀ là quan hệ từ hoặc phó từ khi
theo sau một từ khác (như chỉ là, hay là, vẫn là, vốn là v.v.) [12: 613]
Trong Ngữ pháp tiếng Việt của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam
(1983) LÀ là một động từ (“không có
nghĩa đầy đủ là thực từ”), có vai trò biểu thị quan hệ đề thuyết. Nó được xem
là phương tiện hình thức cốt lõi để phân biệt “câu luận” và “câu tả” (Các tác
giả chia cấu trúc đề thuyết đơn thành hai loại câu: “câu tả” có thuyết là động
từ, tính từ, còn “câu luận” có “phương tiện hình thức riêng để biểu thị” là động
từ LÀ [13: 174, 175]. “Câu luận” biểu
thị quá trình tư duy, “suy luận theo đẳng thức X = Y” [13: 184].
Trong Sơ thảo ngữ pháp chức năng tiếng Việt (1991, 2004) của Cao
Xuân Hạo, cấu trúc Đề-Thuyết được chứng minh một cách thuyết phục là cấu trúc
ngữ pháp cơ bản của tiếng Việt; theo đó LÀ là một trong ba yếu tố (cùng với thì, mà) có vai trò đánh
dấu ranh giới giữa Đề và Thuyết. Cao Xuân Hạo khẳng định mạnh mẽ rằng LÀ là một “tiểu tố” (particle)
mà “công dụng chủ yếu và thông thường nhất” là phân giới Đề-Thuyết (tương tự thì, chỉ khác thì ở chỗ LÀ đánh dấu Thuyết trong khi thì
đánh dấu Đề), “chuyên việc thuyết hóa ngữ đoạn theo sau”. Ông nói thêm: “…tất cả
những trường hợp LÀ có thêm những ý nghĩa riêng (như ý nghĩa “hệ từ” trong những câu đẳng
thức (equative) và những câu định tính (attributive) đều là những trường hợp cá
biệt của chức năng báo hiệu phần Thuyết” [1: 232-234]. Sau ông 20 năm, Chim Văn
Bé [2] cho rằng LÀ có hai tư cách: tác tử
(phân giới Đề-Thuyết) chuyên dụng và vị từ quan hệ. Quan điểm của Chim Văn Bé
có vẻ gần với diện mạo thực tế của LÀ hơn.
Về ý nghĩa của LÀ, Lê Xuân Thại có lẽ là người thảo luận kỹ nhất, trong chuyên khảo Câu
chủ - vị tiếng Việt (1994). Theo ông, LÀ biểu thị ý nghĩa đồng nhất (với nhiều biểu hiện: đồng nhất tên gọi -
tên gọi, tên gọi - nội dung, khái niệm, cái riêng - cái chung, đồng nhất các diện,
quan hệ, tính chất “có chung một biểu vật”, “sự vật tồn tại ở vị trí đó” - “sự
vật gì đó”); ý nghĩa so sánh; ý nghĩa nhân quả, gây khiến; ngoài ra còn “một
cách dùng khá đặc biệt” mà nhiều tác giả khác gọi là “câu trùng ngôn” [4: 122 –
127]. Tuy nhiên, trong quá trình phân tích, Lê Xuân Thại chủ yếu căn cứ vào
nghĩa biểu vật của các ngữ đoạn liên kết bằng LÀ cho nên chưa cho thấy hết sự khác biệt rất lớn giữa các ý nghĩa khác
nhau của LÀ.
Về ý nghĩa của LÀ, Cao Xuân Hạo có nói qua LÀ đẳng thức/đồng nhất và LÀ định tính khi bàn về quan hệ phi tham tố. Ở chỗ khác, ông lại nhắc đến LÀ khi liệt kê những quan hệ có
thể có giữa hai thực thể (đồng nhất, tương liên), giữa thực thể và sự tình
(liên đới, vị trí), giữa hai sự tình (tương tác) [1: 446 – 447]. Điều đáng tiếc
là ông chưa phân tích sâu những biểu hiện cụ thể của LÀ trong sự tình quan hệ, dù đã
bước đầu cho thấy đặt LÀ trong cấu trúc sự tình là một hướng đi đầy hứa hẹn. Chim Văn Bé, khi
bàn về LÀ (với tư cách tác tử Đề-Thuyết
và vị từ quan hệ), đã nói đến câu định tính, định lượng, định vị, đẳng thức và
trùng ngôn. Tuy nhiên, ông cũng chưa miêu tả chi tiết.
Từ những gợi ý của các nhà nghiên cứu đi trước, trong bài viết này,
chúng tôi sẽ cố gắng làm rõ đặc trưng ngữ pháp của LÀ, sau đó sẽ thử phân tích đặc
điểm ngữ nghĩa-ngữ dụng của nó để từ đó có cái nhìn hệ thống và chi tiết hơn về
cái từ “rất thông thường nhưng cho đến nay ý kiến của các nhà ngôn ngữ học vẫn
chưa nhất trí” này [4: 115]. Chúng tôi sẽ tiếp cận các vấn đề hữu quan theo
quan điểm của Ngữ pháp chức năng với hai nguyên tắc: thứ nhất, ngôn ngữ là hình
thức, do đó sự khác biệt hình thức luôn đi cùng sự khác biệt về ý nghĩa, và cần
phải được giải thích; thứ hai, mỗi phát ngôn được giả định là một phát ngôn duy
nhất, hành chức trong ngữ cảnh cụ thể với các bên giao tiếp cụ thể. Như vậy, mọi
thao tác cải biến hình thức sẽ được hạn chế tối đa.
2. Tư cách ngữ pháp của LÀ
2.1. Trước hết, LÀ là một từ có khả năng ngữ pháp hoàn toàn giống như những vị từ chính
danh như có, ở, đi, chạy, ăn, đánh, khỏe, mạnh, v.v.. Có hai dấu hiệu chủ
yếu để khẳng định tư cách vị từ của LÀ: Thứ nhất, LÀ có thể đứng làm bổ ngữ cho bất cứ vị từ tình thái nào nếu tương thích về
ngữ nghĩa (vẫn, cũng, mới, còn, có, đã, sẽ, đang, vốn, cứ, luôn, từng, chưa,
sắp, suýt, rất, lại, phải, v.v.); thứ hai, LÀ có thể xuất hiện trong bối cảnh đã có thì phân giới Đề-Thuyết. Ví dụ:
(1) a. Bây giờ anh ấy đã/đang/vẫn
là giám đốc.
b. Có thế giới bên kia không luôn/đúng là vấn
đề dễ gây tranh cãi.
c. Chuyện ấy rất/cũng/mới là tự nhiên.
(2) a. Bụng thon là cá tự
nhiên, còn bụng tròn thì là cá nuôi.
b. Lương hưu của
ông ấy cỡ đó thì phải là đại tá.
Khả năng xuất hiện sau vị từ tình
thái là điều hiển nhiên, nhưng có nhiều nhà nghiên cứu không xem đây là đặc
trưng vị từ tính của LÀ. Lý do: LÀ không thể làm trung tâm ngữ đoạn;
vị từ tình thái có thể đứng trước “tất cả các vị ngữ thuật từ các loại”; và trước
“vị ngữ thể từ” không nhất thiết phải có LÀ [5: 209], [4: 93]. Thực ra, lý do thứ nhất không cần phải bàn thêm, vì
đến nay trên thế giới và cả ở Việt Nam, đa số nhà nghiên cứu đều nhận ra rằng,
về ngữ pháp, vai trò trung tâm ngữ đoạn có thể là những “hư từ”, “từ phụ trợ” (chẳng
hạn giới từ, chỉ định từ), bất kể chúng có nghĩa từ vựng hay không. Lý do thứ
hai và thứ ba có liên quan với nhau, nhưng chung quy vấn đề nằm ở chỗ LÀ trước danh ngữ có thể “lược bỏ” trong
nhiều trường hợp. Dĩ nhiên, hiện tượng lược bỏ một yếu tố nào đó trong cấu trúc
(nhất là trong khẩu ngữ) là hiện tượng phổ biến. Tuy nhiên, theo Ngữ pháp chức
năng, hai hình thức khác nhau (± LÀ) phải được giải thích trong tính hệ thống của nó trước khi chọn giải
pháp “lược bỏ”. Trong phần tiếp theo, khi phân tích ngữ nghĩa của LÀ chúng tôi sẽ chứng minh phát
ngôn có LÀ hay không có LÀ không phải là đồng nhất.
2.2. Ở những câu mà Đề và Thuyết là
hai sự tình (hai tiểu cú), trong đó sự tình thứ nhất là khung đề điều kiện cho
sự tình thứ hai, thì dường như LÀ không còn tư cách vị từ nữa mà nó chỉ hành chức như tác tử phân giới Đề-Thuyết.
Nghĩa là lúc này nó đứng ở vị trí của tác tử thì, biểu hiện mối quan hệ
“hiện thực”, “tất nhiên”, “trực tiếp”, “tức thì” giữa nguyên nhân/điều kiện (Đề)
và kết quả (Thuyết), thay vì điều kiện giả định như thì. So sánh:
(3) a. Trời mưa là/thì đường ngập. b.
Hễ phim nào hay là/thì tớ đi xem.
c.
Nó thi là/thì đậu. d. Cứ hỏi
chuyện chồng con là/thì cô lảng đi.
Chính vị trí điển hình của tác từ
phân giới này đã khiến nhiều nhà nghiên cứu bỏ qua tư cách vị từ của LÀ ở các câu (3). Thực ra, mối quan
hệ “hiện thực”, “tất nhiên”, “trực tiếp”, “tức thì” giữa hai sự tình đã đủ để LÀ hành chức mà không cần tình thái
hóa. Còn khi vì mục đích giao tiếp mà người nói đặt một vị từ tình thái nào trước
nó thì ngay lập tức nó bộc lộ tư cách vị từ của mình, và lúc này có thể xuất hiện
thì ở biên giới Đề-Thuyết. Ở các câu sau đây, nếu bỏ những từ in nghiêng
thì ta sẽ có cấu trúc LÀ điều kiện như (3):
(4) a. Trời mưa thì chắc là đường ngập. b. Nó thi thì có thể
là đậu.
c.
Em cho bạn copy bài thì chẳng phải là em hại bạn sao?
d.
Anh bắt tôi kê khống thì thà là tôi nghỉ việc.
e.
Anh tăng lương thì nhất định là ông ấy sẽ ở lại.
Điều vừa nêu trên cho thấy LÀ vị từ vẫn chưa phải là một tác tử
cú pháp hoàn toàn như thì, mà, dù nó có vai trò kiểm tra ranh giới Đề-Thuyết
(test word). Trong thực tế, khi hai sự tình được diễn đạt bằng hai tiểu cú
không đầy đủ (chỉ gồm vị ngữ, nhất là khi không thể hiện tính hữu tận (finite)
của sự tình) thì cấu trúc điều kiện-kết quả rất khó phân biệt với cấu trúc định
luận của LÀ (sẽ nói rõ hơn ở 4.5). So sánh:
(5) a. Tôi hạ mình trước ông ấy là tôi nhục lắm rồi.
b.
Hạ mình trước người khác là nhục.
2.3. Trong những phát ngôn diễn đạt quá
trình nói năng và suy nghĩ([2]), LÀ có thể đóng vai trò dẫn nhập cho lời dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp. Từ LÀ này thường được gọi bằng nhiều
tên khác nhau: “phụ tự” [3: 138], “trợ từ” [12: 613], “kết từ” [4: 93].
Về mặt ngữ pháp, thành phần lời dẫn
trả lời trực tiếp cho câu hỏi “nói gì?”, “dặn gì?”, “nghĩ gì”, cho nên nó là bổ
ngữ của vị từ đi trước. Về mặt ngữ nghĩa, thành phần này chính là diễn tố Nội
dung (content) của vị từ phát ngôn hoặc suy nghĩ.
LÀ không phải là trợ từ vì nó không
cung cấp nghĩa tình thái hoặc “nhấn mạnh” mà chỉ dẫn nhập, báo trước Nội dung lời
dẫn; cũng không phải là liên từ, do vai trò phụ thuộc của ngữ đoạn chứa nó. Như
vậy, sẽ hợp lý hơn nếu xem LÀ hành chức như một giới từ khi xuất hiện trước lời dẫn. Hơn nữa, quá
trình ngữ pháp hóa từ vị từ đến giới từ là hiện tượng phổ biến trong tiếng Việt
và quá trình này chưa phải đã hoàn tất.
(6) a. Cô Lan nói là “Phim này cấm trẻ em”. (lời dẫn trực tiếp)
b.
Cô Lan nói là trẻ em không xem phim này được. (lời dẫn gián tiếp)
c.
Cô Lan nói là phim này không hợp với trẻ em à? (lời dẫn gián tiếp)
d.
Tôi nghĩ là phim này dành cho người lớn.
e.
Tôi nói là phim này dành cho người lớn.
Lời dẫn được hiểu là sản phẩm
ngôn từ của ai đó (trong ví dụ trên là “cô Lan”) được đưa vào phát ngôn hiện
đương. Nếu chủ thể của vị từ suy nghĩ là “tôi” (ngôi thứ nhất) thì sau LÀ cũng là lời dẫn, và là lời dẫn
trực tiếp, vì cái “lời” đó xem như đã được hình thành trước thời điểm nói (6d).
Nếu chủ thể của vị từ nói năng là “tôi” thì lời dẫn thường là lời dẫn gián tiếp,
vì người ta chỉ nói “Tôi nói là…” sau khi đã đưa ra một phát ngôn và muốn nhắc
lại nội dung của nó (6e).
Như một hệ quả, LÀ không thể dẫn nhập “lời dẫn” khi
“lời dẫn” là một nhận định tức thì tại thời điểm nói, thể hiện bằng những yếu tố
tình thái cuối câu – lý do đơn giản là thành phần này không còn tư cách của “lời
dẫn” nữa. Chẳng hạn:
(7) a. ??Tôi nghĩ là cô ấy đẹp đấy chứ!
b.
??Tôi nghĩ là nó muốn làm nũng với anh chứ gì!
Hai câu trên sẽ “ổn” nếu không có
mặt LÀ (trên chữ viết, từ LÀ có thể thay bằng dấu phẩy hoặc dấu
ba chấm); khi đó ta sẽ có quan hệ đẳng kết giữa hai tiểu cú – thứ quan hệ mà
Halliday gọi là “phóng chiếu” (projection)([3]).
Cũng cần nói thêm, vị từ “suy
nghĩ” cũng không thể dùng LÀ dẫn nhập cho “lời dẫn”, bất kể “lời dẫn” có được tình thái hóa hay
không. Ví dụ:
(8) a. Tôi suy nghĩ (??là) cô ấy đẹp. b.
Tôi suy nghĩ (??là) tương lai sẽ tốt đẹp.
Vị từ “suy nghĩ” nên được thay bằng
“nghĩ”; hoặc ít nhất, trên chữ viết, các câu (8) nên được trình bày như câu
ghép (phóng chiếu): “Tôi suy nghĩ, cô ấy đẹp”, “Tôi suy nghĩ, tương lai sẽ tốt
đẹp”.
Ở các câu (6), sự có mặt của LÀ đứng trước lời dẫn có vẻ tùy chọn
vì không tạo ra sự khác biệt đáng kể về nghĩa lẫn ngữ pháp. Tuy nhiên, nó giúp phân
biệt sự tình nói năng với sự tình cầu khiến, so sánh:
(9) a. Mẹ dặn là em về sớm nấu cơm. b. Mẹ dặn em về sớm nấu cơm.
Ở (9b), cách hiểu thứ nhất: “dặn”
có bổ ngữ là (tiểu cú) lời dẫn; cách hiểu thứ hai: “dặn” có hai bổ ngữ: “em” và
“về sớm nấu cơm” ([ai] [làm gì] là hai bổ ngữ điển hình của vị từ cầu khiến).
Trong khi đó, (9a) chỉ có thể hiểu “em về sớm nấu cơm” là lời dẫn.
Nó cũng giúp phân biệt sự tình
suy nghĩ với sự tình tri giác, so sánh:
(10) a. Mẹ thấy là bố con đã quyết định đúng. (suy nghĩ)
b.
Mẹ thấy (??là) bố con mới đi ra ngoài. (tri giác)
Vị từ “thấy” ở (10a) có thể thay
bằng “nghĩ”, “cho”, “tưởng”, và hầu như không có khác biệt về nghĩa. Ở (10b) là
quá trình tri giác nên không thể dùng LÀ. Nếu thay “thấy” bằng “nghĩ”, “cho”, “tưởng” thì ta sẽ có quá trình suy
nghĩ, và có thể dùng LÀ sau nó.
3. Ý nghĩa của LÀ
Cần phải khẳng định rằng LÀ là một vị từ có nghĩa. Nghĩa
của nó chính là mối quan hệ đối tượng (sự vật, sự tình nêu ở phần Đề) với một
chủng loại, đối tượng, không gian, thời gian hoặc nội dung mà người nói quy gán
hoặc diễn giải (nêu ở phần Thuyết). Cũng có nhiều người khẳng định tư cách động
từ của LÀ [3: 138, 139], nhưng lại không
rành mạch khi nói về nghĩa của nó. Lý do: “quan hệ” là thứ khó chỉ ra một cách
trực quan như ăn, chạy, nằm, ngồi…
Tuy nhiên, xét cho cùng thì câu hỏi “LÀ là gì?” khó giải thích nhưng cũng chẳng khác gì “CÓ là gì?”, “Ở là gì?”
– những câu hỏi mà muốn giải thích thì phải viện đến những từ ngữ, khái niệm trừu
tượng hơn.
Tính có nghĩa của LÀ không phải là tiên nghiệm mà là kết quả của sự tương tác giữa ngữ pháp
và ngữ nghĩa; trong đó LÀ được đặt trong quan hệ đối sánh với vị từ “bình thường”, trong quan hệ
với vị từ tình thái, trong những phát ngôn có LÀ và không có LÀ. Tình hình về LÀ tiếng Việt rất khác với cái gọi là “hệ từ” (copula) của một số ngôn ngữ
khác. Từ góc nhìn phổ quát về hệ từ, Pustet nói đến nghịch lý: nghĩa của hệ từ
được coi là hiển nhiên đến mức việc định nghĩa về nó trở nên không cần thiết
nhưng nhiều tài liệu lại nhất trí với nhau rằng đặc trưng của hệ từ là “vô
nghĩa”, “trống nghĩa” (semantically empty) [16: 2]. John Lyons cũng cho rằng to
be (tiếng Anh) chỉ là “động từ giả” (dummy verb), “trống nghĩa” mà người ta
cần đến để đánh dấu cú pháp [15: 322, 323].
LÀ khác đa số vị từ “bình thường” (tạm
gọi là vị từ “miêu thuật”([4])) ở chỗ trong khi các vị từ miêu
thuật biểu thị một hành động, quá trình, tư thế, trạng thái cụ thể của đối tượng
được nói đến thì LÀ chỉ biểu hiện các mối
quan hệ của đối tượng trong thế giới mà đối tượng tồn tại, theo nhận định, diễn
giải của người nói. Nói rõ hơn, với vị từ LÀ người nói không đặt đối tượng vào quá trình chuyển tác hay vô tác (Cao
Xuân Hạo gọi đó là quan hệ phi tham tố) để miêu tả mà chỉ nhận diện đối
tượng bằng cách quy nó về một chủng loại nhất định (với sở biểu đã biết), hoặc
đặt nó trong quan hệ với một/những đối tượng khác, hoặc gán cho nó những đặc
trưng mà nếu không được nêu ra thì bản thân đối tượng không bộc lộ. Trên thực tế,
trong sách Ngữ pháp tiếng Việt (1983) “câu luận” (“có dùng động từ là”)
được hiểu là kiểu câu “biểu thị một quá trình suy luận nhằm xác định đặc trưng
của một sự vật”, phân biệt với “câu tả” (“không dùng động từ là”) [13: 174,
175].
Khi thấy “chị Lan” làm gì đó (như cắt thịt, xào rau…), người nói có thể
miêu tả: “Chị Lan đang nấu ăn”, “Chị Lan làm món rau xào”, “Món rau xào của chị
Lan rất ngon”, v.v.. Và cũng có thể đưa ra nhận định: “Chị Lan là người phụ nữ
đảm đang”, “Chị Lan là người làm món rau xào”, “Món rau xào là của chị Lan”, “Xào
rau mà rau vẫn xanh là rất khó”, v.v.. Những phát ngôn này không tả hoặc thuật
lại trực tiếp và cụ thể những sự tình diễn ra trong thế giới hiện thực về chị
Lan hoặc món rau xào mà chỉ “luận” về chị Lan (bằng cách cho biết tư cách thành
viên thuộc “chủng loại” (tập hợp, nhóm) “người đảm đang” của chị ấy), về món
rau xào (bằng cách cho biết quan hệ của nó với chị Lan), về việc xào rau (bằng
cách gán cho nó tư cách thành viên của nhóm “việc/điều/chuyện rất khó”).
Về đại thể, phần Thuyết với các vị từ miêu thuật trả lời câu hỏi “… thế
nào?”, “V sao?”, “V gì?”, “V ở đâu?”, “V đâu?”, “V bao nhiêu?”; trong khi LÀ trả lời những câu hỏi có tính
bản thể: “… là ai?”, “… là gì?”, “… là sao?”, “… là bao nhiêu?”.
3.1. LÀ diễn đạt quan hệ loại
Đây là những cấu trúc trong đó người
nói dùng vị từ LÀ để thiết lập quan hệ giữa cá
thể với chủng loại hoặc tập hợp (gọi chung là “chủng loại”) – trước đây thường được
gọi là quan hệ định tính [1] [9] – hoặc ngược lại, quan hệ giữa chủng loại với
cá thể mà nó bao hàm – gần giống quan hệ liệt kê. Cả hai quá trình này đều nhằm
mục đích giúp người nghe nhận diện đối tượng đang nói đến.
Khi Đề là một danh ngữ (NP1),
phần Thuyết [LÀ + NP2 (danh ngữ-bổ ngữ)] có
thể chỉ ra cái chủng loại mà đối tượng nêu ở phần Đề thuộc vào. Đây chính là cấu
trúc [Danh - LÀ - Danh] mà gần nửa thế kỷ trước
đã có nhiều nhà nghiên cứu tranh luận, rằng ở cấu trúc này LÀ biểu thị quan hệ bao hàm [6][7]),
quan hệ đồng nhất [10]. (Thực ra, cấu trúc [Danh - LÀ - Danh] ở các tác giả này bao
hàm cả cấu trúc đẳng thức, sẽ nói ở phần sau).
Trong những phát ngôn có LÀ, có hai đối tượng đã được tiền giả định tồn tại, đối tượng đứng trước (diễn
đạt bằng NP1) là đối tượng cần được nhận diện, có mặt trong tình huống hiện
đương hoặc trong văn cảnh/ngôn cảnh, là xuất phát điểm của phát ngôn (thực chất
đây là đòi hỏi vốn có của phần Đề), đối tượng thứ hai (NP2) được đưa ra để giúp
nhận diện đối tượng đứng trước, vì có mối quan hệ thuộc tính chủng loại với nó.
Giao tiếp sẽ không thành công nếu NP2 không gợi lên ý niệm nào ở người nghe.
Trong quá trình nhận thức sự vật,
việc đặt đối tượng trong quan hệ với một chủng loại nào đó (phân loại đối tượng)
thực chất là quy gán thuộc tính của chủng loại đã biết cho đối tượng đang nói đến.
Sở dĩ như vậy là vì chủng loại là một khái niệm ngoại diên lớn (nội hàm ít dấu
hiệu hơn), phản ánh ý niệm của con người về thế giới khách quan, bao hàm nhiều khái
niệm có ngoại diên nhỏ hơn (nội hàm phong phú hơn), tương tự như quan hệ bao
hàm giữa giống và loài([5]); và ngoại diên nhỏ nhất có thể
chỉ gồm một cá thể. Như các câu (11) sau đây, phần Đề NP1 có thể là một danh ngữ/đại
từ có sở chỉ là một cá thể hoặc tập hợp (11a, b, c) hoặc một danh ngữ có sở chỉ
là toàn bộ một loài (11e, f); sau LÀ là một danh ngữ không có sở chỉ, biểu thị chủng loại mà đối tượng thuộc
vào, do đó mà người ta biết được thuộc tính của đối tượng.([6])
(11) a. Con này là gấu. b.
Những con chó đó là chó Phú Quốc.
c. Đó là một con chó Phú Quốc. d.
Gấu vùng này là gấu ngựa.
e. Voi là động vật ăn cỏ. f. Voi là loài động vật ăn cỏ.
Ở (11a), (11b) “gấu”, “chó Phú Quốc” là những khái niệm
(tên gọi) mà người Việt khái quát hóa từ những đặc trưng về hình dáng, da lông,
tập tính, v.v., của một chủng loại([7]) và phân biệt với những chủng loại
khác (nó đã được tiền giả định tồn tại, dù người nghe có biết hay không). Vì vậy,
để (giúp người nghe) nhận diện “con này”, “những con chó đó”, người nói đặt
chúng trong quan hệ với “gấu”, “chó Phú Quốc”, hàm chỉ rằng chúng mang những đặc
trưng chủng loại của “gấu”, của “chó Phú Quốc” thay vì phải miêu tả chúng thế
nào. Các ví dụ khác cũng tương tự. Về mặt ý nghĩa, ở (11c) NP2 cho biết một cá thể thuộc “chó Phú Quốc”, trong
khi các câu còn lại thì cho biết loài.
Ở quan hệ định loại dạng này, NP1 được
bao hàm hoàn toàn trong NP2 cho nên có thể gọi là quan hệ được bao
hàm. Những câu thông tin chung về nguồn gốc, quê quán, nghề nghiệp, chất liệu,
quan hệ sở thuộc thường thuộc cấu trúc này.
(12) a. Bà Lan là người Hà Nội / doanh nhân / giám đốc / bác sĩ.
b.
Cái bàn ăn đó là gỗ sồi. c.
Cuốn sách này là của thư viện / của tôi.
Các câu (12) nếu không có LÀ vẫn chuẩn tắc và có cùng nội
dung mệnh đề. Tuy nhiên, khi đó sẽ có hai kiểu câu khác nhau: [Đề (NP1) - Thuyết
(LÀ + NP2)] và [Đề (NP1) - Thuyết
(NP2)]. Câu có LÀ là câu quan hệ, câu không có LÀ là câu miêu thuật có danh ngữ
làm Thuyết. Khả năng sử dụng câu miêu thuật không có LÀ hạn chế hơn câu quan hệ LÀ rất nhiều. Lý do:
(i) Trong một
phát ngôn có nhiều Thuyết, NP2 dễ được nhận diện như là định ngữ hoặc phụ chú
ngữ: “Bà Lan người Hà Nội làm ăn rất giỏi” vs. “Bà Lan là người Hà Nội, làm ăn
rất giỏi”.
(ii) Trừ từ
“người”, “dân” để biểu thị nguồn gốc, nguyên quán (“… người Đức”, “… người Hà Nội”,
“… dân Quảng Nam”), còn thì những phát ngôn không có LÀ sẽ thiếu tự nhiên hoặc gây cảm
giác chưa hoàn chỉnh, thậm chí bất khả chấp, nếu không có tình huống hoặc tình
thái nhất định. Chẳng hạn: ??“Bà Lan người lao động”, ??“Ông Nam dân giàu có”, ??“Chị
Thu giới kinh doanh”, ??“Con trai chị ấy giám đốc”, ??“Hai người ngồi ở đằng
kia bác sĩ”, ??“Bà Lan người Hà Nội cố cựu của những năm 50”.
(iii) Tương
tự, những phát ngôn về chất liệu hoặc quan hệ sở thuộc cũng sẽ thiếu tự nhiên
hoặc sẽ gây cảm giác chưa hoàn chỉnh nếu không có LÀ: ??“Cái bàn ấy gỗ”, ??“Con
trâu bị bắt mất của chú Tư hàng xóm”, ??“Thằng bé được thưởng cháu ngoại của
tôi”. Khi có ngữ cảnh, được tình thái đầy đủ, và đặc biệt là NP2 biểu thị thông
tin được biệt loại, thì có thể không cần LÀ: “Cái bàn ấy gỗ sồi mà!”, “Con trâu bị bắt mất của chú Tư hàng xóm đấy!”,
“Thằng bé được thưởng cháu ngoại của tôi chứ không phải cháu nội”. Hơn nữa, về
ngữ điệu, khoảng dừng sau phần Đề là rất cần thiết để người nghe nhận biết được
thông tin ở những câu này.
Có thể thấy kiểu câu không có LÀ thường chỉ dùng để giới thiệu đối tượng với thông tin tối thiểu (nguyên
quán, chất liệu, sở thuộc) khi tình huống giao tiếp hoặc tình thái đủ rõ. Như vậy,
có lẽ chỉ nên xem nó là một cách nói tắt của câu quan hệ có LÀ thay vì xem nó là kiểu câu
miêu thuật có Thuyết là danh ngữ.
Ở chiều ngược lại, khi NP1 ở Đề biểu
thị một chủng loại, bổ ngữ NP2 sau LÀ sẽ chỉ ra ngoại diên của nó. Trường hợp này được dùng khi khái niệm chủng
loại đã tồn tại trong ngữ cảnh hoặc tình huống giao tiếp, người nói giúp người
nghe nhận diện chúng thông qua cá thể (hoặc tiểu loại). Chẳng hạn:
(13) a. Chó Phú Quốc là hai con này. b.
Bạn thân của tôi là Nam và Hà.
c. Hoa hồng
là những chậu nhỏ ở đằng kia.
d. Những tác
phẩm cần đọc là Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên.
e. Thiết bị điện tử là điện thoại, máy tính, robot hút bụi, v.v..
Ở các câu (13) NP1 bao hàm NP2, NP2
thuộc ngoại diên của NP1, cho nên có thể gọi đây là quan hệ bao hàm.
Trong thực tế ngôn ngữ, mối quan hệ bao hàm giữa NP1 và NP2 không trùng
khít lên nhau; lý do đơn giản là ngoại diên của NP1 rất lớn, không thể và không
cần thiết được nêu ra đầy đủ. Hơn nữa, thông thường trong cuộc sống người ta
tri nhận và làm việc với cá thể chứ không phải là chủng loại. Điều này cũng giải
thích tại sao “thiết bị điện tử” đối với người bình thường sẽ được nhận diện
qua điện thoại, máy tính, tivi chứ không phải là hệ thống điều khiển trên máy
bay hoặc những chiếc máy chụp cắt lớp dùng trong y tế.
Ở (13a) “chó Phú Quốc” được nhận diện
thông qua “con chó” tồn tại trong ngữ cảnh hoặc trong tình huống hiện đương chứ
không thể là một/những con chó (Phú Quốc) nào đó ở Phú Quốc hoặc ở Sở thú. Ở (13b)
NP2 “Nam và Hà” được nêu ra, nhưng không có nghĩa rằng chỉ có hai cá thể đó thuộc
chủng loại “bạn thân của tôi” – sở dĩ người nói chỉ nêu ra hai người là vì lý
do ngữ dụng: đó là hai người mà hai bên hội thoại đã “biết”, cùng quan tâm hoặc
người nói cho rằng người nghe nên biết. Với phát ngôn “Những học sinh xuất sắc
trong lớp này là em Lê Nam, Nguyễn Thị Lan, Trần Hùng.”, người nghe có thể tin
rằng đó là tất cả những cá thể mang thuộc tính “học sinh xuất sắc trong lớp
này”, nếu nó được nói ra khi giáo viên thông báo danh sách khen thưởng; và người
nghe có thể nghĩ rằng còn một số học sinh xuất sắc không được nêu tên, nếu nó
được nói ra trong cuộc thoại giữa hai giáo viên. (13d) và (13e) cũng tương tự.
Trong cấu trúc bao hàm, có nhiều khả
năng đảo ngược NP1 và NP2, khi đó ta sẽ có cấu trúc được bao hàm, chẳng hạn: “Những
chậu nhỏ ở đằng kia là hoa hồng”, “Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên là
những tác phẩm cần đọc”. Dĩ nhiên, khi đổi cấu trúc thì ngữ pháp, ngữ nghĩa và
mục đích phát ngôn sẽ thay đổi.
Cấu trúc bao hàm dường như không được Cao Xuân Hạo chấp nhận: ông cho rằng
“Anh Nam là thủy thủ”, “Hổ là loài ăn thịt” không thể đảo ngược “Thủy thủ là
anh Nam”, “Loài ăn thịt là hổ”. Sở dĩ như vậy là vì Cao Xuân Hạo phân biệt “câu
đẳng thức” và “câu định tính”, phạm vi biểu hiện của hai danh ngữ trong “câu đẳng
thức” tương đương nhau nên có thể đảo ngược [NP1 = NP2 → NP2 = NP1], còn trong
“câu định tính” thì [NP1 < NP2] nên “mối quan hệ giữa hai bên không thể đảo
ngược” [1: 221, 222]. Thực ra, một phát ngôn có quan hệ bao hàm được chấp nhận
hay không tùy thuộc vào điều kiện ngữ dụng chứ không phải ngữ pháp: người nói
dùng nó khi NP1 biểu thị chủng loại đã được tiền giả định tồn tại trong diễn
ngôn, và người nói cung cấp ngoại diên để nhận diện nó. Vấn đề này sẽ được làm
rõ hơn ở phần sau.
(Ghi chú: Mối quan hệ bao hàm không phải là quan hệ liệt kê biểu thị bằng
như: từ như chỉ đơn giản cho biết những yếu tố, thành phần tiêu
biểu cho điều vừa được nói ra, còn LÀ diễn đạt quan hệ giữa chủng loại và yếu tố, thành phần thuộc nó).([8])
3.2. LÀ diễn đạt quan hệ
định tính và đẳng thức
Xét
ví dụ:
(14) a. Ông Tú là thợ mộc. a’. Ông Tú là một người
thợ mộc.
b. Ông Tú là người thợ mộc. b’.
Người thợ mộc là ông Tú.
c. Ông Tú là người thợ mộc khéo tay nhất ở làng này.
d. Ông Tú và ông Hà là những/hai người thợ mộc khéo tay nhất ở làng này.
e. Ông Tú là một
người thợ mộc khéo tay nhất ở làng này.
Câu (14a) và (14a’) cho biết “ông
Tú” là thành viên được bao hàm trong “thợ mộc”, nhưng có điểm khác: (14a’) người
nói hiển ngôn rằng “ông Tú” chỉ là một cá
thể trong cái chủng loại “thợ mộc” (“thợ mộc” là định ngữ chỉ loại
của “người”). Cả hai thuộc cấu trúc định loại đã nói ở 3.1.
Ở (14b) có mặt hai thực thể là
“ông Tú” và “người thợ mộc”. Sự có mặt của danh từ đơn vị “người” cho biết đó
là cá thể duy nhất mang thuộc tính “thợ mộc” đã tồn tại mà hai bên giao tiếp đã
biết (trong ngữ cảnh cụ thể hiện đương([9])), nghĩa là xác định và có sở chỉ,
nhưng người nghe sẽ không nhận diện được “ông Tú” nếu người nói không nói ra –
tiền giả định này bảo đảm rằng NP2 là một danh ngữ hoàn chỉnh, không cần thêm bất
cứ định ngữ nào khác. Định ngữ chỉ loại “thợ mộc” theo sau danh từ
đơn vị “người” đủ để “người thợ mộc” được hiểu là một thực thể duy nhất trong
những thực thể thuộc loại khác (thợ hồ, thợ điện, v.v.).
Trong một tình huống khác, khi (người
nói cho rằng) người nghe biết có “người thợ mộc” trong ngữ cảnh hiện đương (người
duy nhất đang bào gỗ bên cạnh những người thợ xây, chẳng hạn) nhưng không nhận
diện được đó là ai thì vẫn diễn ra quá trình quy gán tương tự: người nói giúp nhận
diện “người thợ mộc” bằng cách gắn người ấy với “ông Tú”. Ở (14b), đối tượng cần
nhận diện là “ông Tú”, ở (14b’) là “người thợ mộc” (cf. cấu trúc bao hàm ở (13)).
Ở (14c), cách diễn giải thứ nhất:
định ngữ chỉ xuất “khéo tay nhất ở làng này” xác định sở chỉ của cá
thể duy nhất mà “ông Tú” được quy gán. Về mặt ngữ nghĩa, có tiền giả định rằng “có
sẵn” một thực thể là “người thợ mộc khéo tay nhất ở làng này” và người nói đồng
nhất “ông Tú” với thực thể đó([10]); rất khác với một phát ngôn miêu
tả như “Ông thợ mộc (tên) Tú khéo tay nhất ở làng này”. Nhờ sự có mặt của định ngữ chỉ xuất (hoặc hạn định), cái cá thể
này không nhất thiết phải hiện diện trong ngữ cảnh cụ thể; trong khi ở (14b) và
(14b’) đối tượng cần nhận diện và đối tượng dùng để nhận diện phải tồn tại
trong ngữ cảnh giao tiếp hiện đương. (Ở (14c) hoàn toàn có thể thay định ngữ chỉ
xuất trong NP2 bằng định ngữ trực chỉ (“người thợ mộc này/ấy”).
Theo cách diễn giải này, (14b, b’, c) có thể gọi là cấu trúc đẳng thức.
Tuy nhiên, trong một ngữ cảnh
khác có cách diễn giải thứ hai: NP2 (14c) không có sở chỉ, không mang tiền giả
định tồn tại. Người nói có thể đưa ra nhận định chủ quan của mình về
“ông Tú” tại thời điểm nói, rằng ông ấy là [“thợ mộc” ∩ “khéo tay nhất (ở làng này)”].([11]) Định ngữ chỉ xuất “khéo tay nhất
(ở làng này)” là một vị ngữ định giá trị/thuộc tính mà người nói gán cho “ông
Tú”, chứ không phải người nói đồng nhất hai thực thể “có sẵn” như ở cách hiểu
thứ nhất. (Nếu được hỏi “Người thợ mộc khéo tay nhất trong làng là ai?”, có thể
dân làng sẽ kể “ông Năm” chứ không phải “ông Tú”, hoặc sẽ kể ra vài ba người,
trong đó có thể có “ông Tú” hoặc không). Ở đây cũng diễn ra quá trình quy gán
nhưng là quy gán thuộc tính, chứ không phải quy gán cá thể như ở cách diễn giải
thứ nhất. Quy gán thuộc tính rất giống với quy gán chủng loại (cf. (11) và (14a));
vì khi quy gán chủng loại, cá thể NP1 sẽ nhận những thuộc tính của chủng loại
NP2. Sự khác biệt nằm ở chỗ một đằng thì diễn đạt quan hệ giữa cá thể và chủng
loại, còn một đằng thì diễn đạt quan hệ cá thể và thuộc tính.
Câu (14d) cũng có thể diễn giải tương tự; thậm chí càng rõ ràng hơn, do
sự có mặt của lượng từ “những”: nó không hàm ý rằng duy có “ông Tú và ông Hà”
là “thợ mộc khéo tay nhất ở làng này”. Điều này có thể chứng minh gián tiếp qua
hai câu sau:
(14) d’. Ông Tú và ông
Hà đều là những người thợ mộc khéo tay nhất ở làng này.
d’’. *Ông Tú và ông Hà đều là hai người thợ mộc khéo tay
nhất ở làng này.
“Ông Tú và ông Hà” bằng đúng “hai người” cho nên “đều” ở (14d’’) bất khả
chấp, trong khi ở (14d’) chỉ cho thấy tập hợp NP2 bao hàm tập hợp NP1 chứ không
hàm ý rằng chỉ có đúng “ông Tú và ông Hà” mang thuộc tính ở NP2.
Và hệ quả là (14e) cũng khả chấp theo cách hiểu thứ hai; “một” ở đây được
hiểu như “1” số từ chứ không phải quán từ bất định (nhiều người vẫn băn khoăn
do cho rằng “một” ở (14e) là “một” bất định, có quan hệ loại trừ với “nhất” xác
định). Tức là, câu (14e) và (14d) được hiểu theo kiểu quy gán thuộc tính: “… là
một/những người thợ mộc mà tôi cho là khéo tay nhất”, hoặc theo kiểu quy
gán chủng loại: “… là một trong những người thuộc nhóm thợ mộc khéo tay
nhất (đã biết) ở làng này”, “… là những người thuộc nhóm thợ mộc khéo
tay nhất ở làng này (chứ không như những người thợ mộc kia)”. Trong thế giới
kinh nghiệm, ý niệm về “giỏi nhất”, “khéo léo nhất”, “tốt nhất” có vẻ là ngẫu
tính (accident) hơn là thuộc tính tất yếu của thực thể. So sánh: “Họ chỉ nhận một
em giỏi nhất” nghe có vẻ “ổn” hơn là “Họ chỉ nhận một em cao nhất”.([12])
Theo cách diễn giải này, (14c) có thể gọi là cấu trúc định tính.
Khi phần Đề NP1 biểu thị tập hợp có giới hạn hoặc tiểu loại (không phải toàn
chủng loại) cũng có cấu trúc định tính. Xét:
(15)
a. Hoa hồng leo là (loại) hoa hồng ngoại
/ *(loại) hoa dễ trồng nhất.([13])
b. Thợ mộc ở làng này là thợ mộc mỹ nghệ / *thợ mộc giàu có.
c. Những người thợ mộc ở làng này là thợ mộc mỹ nghệ / *thợ mộc giàu có.
d. Những người thợ mộc ở làng này là những người giàu có.
e. Những người thợ mộc ở làng này là những người thợ mộc giàu có.
Ở (15a) NP1 “hoa hồng leo” biểu
thị tiểu loại, NP2 “hoa hồng ngoại” biểu thị chủng loại (phân biệt với “hoa hồng
nội”); từ “loại” có thể có mặt hoặc không. Trong khi đó, NP2 “hoa dễ trồng nhất”
là nhận định của người nói về thuộc tính của “hoa hồng leo” chứ không phải là
chủng loại, do đó sự có mặt của “loại/thứ” là bắt buộc. Nói cách khác, tại thời
điểm nói, người nói sử dụng một định ngữ chỉ xuất (hoặc hạn định) để thông tin
về thuộc tính mà anh ta gán cho NP1.([14]) Như vậy, “Voi là động vật ăn cỏ”
là một nhận định diễn đạt quan hệ định loại, trong khi đó “Voi là động vật dễ
thương” lại diễn đạt quan hệ định tính.
Ở (15b) NP2 “thợ mộc mỹ nghệ” là một tiểu loại “thợ mộc” (phân biệt với
“thợ mộc xây dựng”) nên khả chấp, còn “thợ mộc giàu có” thì không. (Về mặt ngữ
pháp, danh từ khối “thợ (mộc)” không thể nhận “giàu có” làm định ngữ chỉ loại).
Tuy nhiên, ở cả hai trường hợp NP1 đều được bao hàm trong NP2.
Ở (15c, d, e) NP1 không biểu thị
loại (khác với (15b)) mà biểu thị một tập hợp (lượng từ “những” chỉ diễn đạt số
phức chứ không diễn đạt loại) và tập hợp này được bao hàm trong NP2. NP2 ở (15c)
biểu thị loại (tương tự (11b)); NP2 ở (15d) biểu thị tập hợp chứ không phải chủng
loại “người giàu có” do sự có mặt của lượng từ “những” (và “người giàu có”
không giới hạn ở nghề “thợ mộc”). NP2 ở (15e) biểu thị tập hợp “người thợ mộc
giàu có”; tuy nhiên, không thể cho rằng ngoại diên của NP2 (15e) < NP2 (15d),
lý do: “giàu có” không phải là định ngữ chỉ loại “thợ mộc” (tương tự như ở (15b)),
và cũng không phải là định ngữ hạn định, vì “thợ (mộc)” không phải là danh từ
đơn vị để có thể mang định ngữ hạn định.
Từ những ví dụ trên có thể nhận định: người nói sử dụng LÀ để định loại cho
đối tượng – khi NP1 và NP2 có quan hệ chủng loại, để định tính cho đối tượng –
khi người nói gán những thuộc tính ở NP2 cho NP1. Nói rõ hơn, cấu trúc định
tính khác cấu trúc định loại ở chỗ thuộc tính được nêu trong NP2 được biểu hiện
ở định ngữ hạn định hoặc chỉ xuất chứ không phải định ngữ chỉ loại.
Có điều cần chú ý, trong quan hệ định tính, đối tượng được gán thuộc
tính hạn định/chỉ xuất bao giờ cũng là những đối tượng tách biệt, có “đường viền”
không gian với những đối tượng tương tự hoặc gần gũi (và cũng vì vậy mà nó mới
được hạn định/chỉ xuất). Đó là những loại,
thứ, hạng, người, đứa, con, cái, cuốn v.v. đã được giả định tồn tại trong
ngữ cảnh (để có đủ tư cách làm Đề). Thuộc tính nêu ra ở NP2 bao giờ cũng là thuộc
tính của cái loại, thứ, hạng, người, đứa,
con, cái, cuốn v.v. ấy; do vậy, sự có mặt của những danh ngữ biểu thị đối
tượng không còn cần thiết – nghĩa là có thể tỉnh lược. Điều này giải thích vì sao
trên bề mặt, bổ ngữ sau LÀ có thể là một vị ngữ chứ không phải là danh ngữ. Chẳng hạn:
(16) a. Những cuốn sách
này là những cuốn sách đáng đọc.
b. Những cuốn sách này là đáng đọc. c.
Những cuốn sách này là rất hấp dẫn.
(17) a. Tòa nhà Landmark
là tòa nhà cao nhất Việt Nam.
b. Tòa nhà Landmark là cao nhất Việt Nam. c. Tòa nhà Landmark là cao nhất.
d. Tòa nhà Landmark là cao. e. Tòa nhà Landmark rất cao.
(18) a. Mấy đứa mắt láo
liên là mấy đứa cần phải dè chừng.
b. Mấy đứa mắt láo liên là phải dè chừng.
c. Mấy đứa đó là phải dè chừng.
Ở các câu (b), danh ngữ biểu thị
đối tượng ở bổ ngữ chính là “những cuốn sách”, “tòa nhà”, “mấy đứa” chứ không
thể là gì khác nên không cần có mặt.([15]) Quan trọng hơn, khả năng tỉnh
lược chỉ có thể diễn ra trong điều kiện ngữ dụng nhất định: đối tượng được nói
đến trong Đề là chủ đề được bàn luận, được
nói về, nghĩa là người nói đưa ra nhận
định của mình về đối tượng (chứ không phải miêu tả như (17e)), bằng cách
gán một thuộc tính, giá trị nào đó cho nó. Hơn nữa, đối tượng phải được đặt
trong quan hệ so sánh với những đối tượng khác hoặc phải bộc lộ đặc trưng nào đấy
trong ngữ cảnh (được hiểu “tòa nhà như thế” (17d), “mấy đứa như thế” (18c)…).
Chính vì vậy, trong câu miêu thuật, những ngữ đoạn biểu thị đặc trưng
(được cho là) gắn liền với thực thể sẽ tự làm Thuyết chứ không cần LÀ. Chẳng hạn, “Cô Lan già”, “Cô
Lan hơi mập”, “Cô Lan khó tính” là những phát ngôn thông thường khi miêu tả “cô
Lan” (nhất là khi người nói phản ứng tức thì khi được hỏi “Cô Lan thế nào?”) tại
thời điểm nói. Trong khi đó, LÀ thường chỉ dùng khi luận về “cô Lan”, có vẻ như người nói suy
nghĩ về bề ngoài hoặc hành động của “cô Lan” và đi đến nhận định rằng “Cô Lan (như
thế) là già / hơi mập / khó tính”. Sở dĩ phải dùng LÀ là vì trong tình huống phát
ngôn có lý do để người nói nghĩ rằng người đối thoại có thể nhận định “cô Lan còn
trẻ / thon thả / khó chịu”. (Ở tiếng Việt, vị từ chỉ tính chất/trạng thái
(“tính từ”) hoàn toàn đủ khả năng làm Thuyết nếu được tình thái hóa, chứ không
cần dẫn nhập bằng động từ “to be” như tiếng Anh).
Rõ ràng, điều kiện ngữ dụng cho những phát ngôn có LÀ như vừa nói (về “cô Lan”) là
khá hạn hẹp nếu so sánh với những phát ngôn như “Câu trả lời đó là thiếu nghiêm
túc”, “Bộ phim đó là không hợp với thiếu nhi”, “Mùi vị món này là khó ăn đối với
người nước ngoài” v.v., vì “thiếu nghiêm túc”, “không hợp với thiếu nhi”, “khó
ăn”, những thuộc tính này được người nói gán cho đối tượng trong ngữ cảnh luận về nó chứ không phải miêu tả. Có vẻ
như LÀ có vai trò đánh dấu phần Thuyết,
làm nổi bật tiêu điểm thông tin.
Trong các trường hợp trên, cả NP1 và NP2 cùng biểu thị một đối tượng. Ở
các câu sau đây, NP1 và NP2 biểu thị hai đối tượng khác nhau, LÀ có vai trò chỉ ra theo cách ẩn
dụ quan hệ thuộc tính giữa chúng: NP1 không thuộc ngoại diên của NP2 nhưng mang
sở biểu của NP2. Ví dụ:
(19) a. Thanh niên là trụ cột của nước nhà. b.
Thương trường là chiến trường.
c. Ở lĩnh vực này,
anh ấy là thầy tôi. d. Mỗi người là một thế giới riêng.
Ở (19a) “thanh niên” được gán cho thuộc tính “chống đỡ”, “tạo sự vững chắc”
của “trụ cột”. Ở (19b) “thương trường” không phải là yếu tố thuộc “chiến trường”
mà nó được gán những thuộc tính (“khốc liệt”) của “chiến trường”. Ở (19c) “anh ấy”
không phải là “thầy tôi” mà chỉ được gán thuộc tính của “thầy” – nghĩa là “có
trình độ rất cao so với tôi”. Ở (19d) NP1 cũng có tính xác định: “(mỗi) người”
không phải là một cá thể mà được hiểu là tập hợp tất cả những người đã biết hoặc
(trong bối cảnh khác) tập hợp người trên thế giới, và mang thuộc tính “một thế
giới riêng” – nghĩa là những thực thể khác biệt.
Thảo luận thêm về quan hệ định tính và quan hệ đẳng thức
Quan hệ đẳng thức là quan hệ giữa hai biểu thức NP1 và NP2 tương đương với
nhau theo kiểu đẳng thức toán học. Trong các tài liệu trước đây, câu “đẳng thức”
được xem là câu “đồng nhất” [1] [9] do cả NP1 và NP2 đều biểu thị một thực thể
(“phản ánh một nhận định về tính đồng nhất của hai thực thể hoặc hai sự tình” [1:
221, 222].
Thực ra, như đã phân tích ở phần
trên (xem diễn giải về (14b, b’)), quan hệ đẳng thức và quan hệ định tính không
khác biệt về ngữ pháp và ngữ nghĩa (nghĩa biểu hiện) mà chỉ khác biệt về ngữ dụng.
Có thể nói, quan hệ đẳng thức là một trường hợp cá biệt của quan hệ định tính, ở
đó người nói đồng nhất hai cá thể hoặc tập hợp xác định, có sẵn, NP1 và NP2 có
ngoại diên và nội hàm trùng nhau (người nói cho rằng NP1 và NP2 đều có sẵn đối
với người nghe, nhưng người nghe không nhận ra NP1 chính là NP2).
Chẳng hạn, những câu sau đây có
thể xem là câu đẳng thức tiêu biểu, vì đối với người bản ngữ cả NP1 và NP2 đều
đã tồn tại sẵn, và NP2 có nhiệm vụ là giúp người nghe nhận diện NP1 chứ hoàn
toàn không đem lại thông tin gì mới về đối tượng.
(20) a. Ngan là vịt
xiêm. b.
Quả na là quả mãng cầu.
c. Cuốn này là
Truyện Kiều. d.
Tố Như chính là Nguyễn Du.
Ở các câu (20), NP2 hành chức như một thứ tên riêng chứ không cung cấp sở
biểu; phát ngôn sẽ không có giá trị thông tin nếu NP2 không xuất hiện trong ngữ
cảnh hoặc người nghe chưa hề “biết” nó trước thời điểm nói (nếu không thì phát
ngôn sẽ bất ổn, vì người nghe sẽ hỏi “vịt xiêm là gì?”, “Nguyễn Du là ai?”).
Các định nghĩa khoa học cũng có thể xem là cấu trúc đẳng thức: NP1 chính
là khái niệm cần định nghĩa, NP2 thể hiện nội hàm của nó. Về lý thuyết, trong định
nghĩa khoa học, thông tin ở NP2 phải đủ để nhận diện NP1.
(21) a. Hình vuông là hình tứ giác
có 4 cạnh và 4 góc bằng nhau.
b. Hình vị là
đơn vị ngữ pháp nhỏ nhất có nghĩa.
Lại khảo sát những câu sau đây:
(22) a. Đứa bé kia là người ném đá. b. Người ném đá là nó.
c. Em là Lê Thị Lan.([16]) d.
Anh Nam là giám đốc.
e. Người viết Sử Ký là Nguyễn Trãi. f.
Nguyễn Trãi là người viết Sử Ký.
Ở (22a) và (22b) là quan hệ đẳng thức vì cả NP1 và NP2 đều tồn tại sẵn
(sự kiện có ai đó “ném đá” phải được tiền giả định, nếu không câu sẽ bất ổn).
Ở (22c) là quan hệ đẳng thức, vì “Lê Thị Lan” là tên riêng, được giả định
là đã có sẵn cá thể mang tên ấy (nhưng người nghe không nhận ra). (22d) có thể
là quan hệ đẳng thức, vì “giám đốc” là một cá thể duy nhất, xác định (khi cô
thư ký cho nhân viên mới biết “giám đốc công ty của mình”), nhưng cũng có thể
là quan hệ định loại (khi cho biết một người thuộc loại “giám đốc”, tức là có vị
trí cao, giàu có).
Câu (22e, f) là quan hệ đẳng thức, vì NP2 là duy nhất và xác định, đây
là điều kiện để giao tiếp thành công, bất kể giá trị chân lý của nó. (Tính quan
yếu ngữ dụng cho phép người nghe nghĩ rằng có một người tên “Nguyễn Trãi” (22e)
hoặc có một tác phẩm là “Sử Ký” (22f)). Hai câu này rất khác với “Người viết Sử
Ký là một người có kiến thức uyên bác”, “Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại nhất Việt
Nam”: ở hai câu định tính này, người nghe có thể cho rằng NP2 là thuộc tính được
người nói gán cho NP1.
Xét thêm các ví dụ sau:
(23) a. Ông Cảnh là người
Quảng Bình.
b. Người ngồi trên cùng là giáo viên trường Lê Hồng Phong.
c. Nguyễn Trãi là con của Nguyễn Phi Khanh.
d. Nguyễn Văn Thiện là hiệu trưởng trường Lê Hồng Phong.
(23a) và (23b) thường được hiểu là cấu trúc định tính, vì “người Quảng
Bình” và “giáo viên trường Lê Hồng Phong” không phải là cá thể xác định duy nhất
(có nhiều cá thể là “người Quảng Bình” hoặc “giáo viên trường Lê Hồng Phong”).
Tuy nhiên, nếu (người nói biết rằng) người nghe biết là trong phòng chỉ có một
“người Quảng Bình” / một “giáo viên trường Lê Hồng Phong” nhưng người nghe
không nhận diện được thì hai câu trên là câu đẳng thức.
Trong khi đó, câu (23c) và (23d) dễ được cho là có cấu trúc đẳng thức
(vì NP2 dường như biểu thị những cá thể duy nhất). Thực chất, hai câu này lại
là quan hệ định tính, vì “Nguyễn Trãi” chỉ là một trong năm người “con của Nguyễn
Phi Khanh” (cp. “Nguyễn Trãi là con
trai đầu của Nguyễn Phi Khanh” – quan hệ đẳng thức); “Nguyễn Văn Thiện”
chỉ là một trong những “hiệu trưởng của trường Lê Hồng Phong” (cp. “Nguyễn Văn
Thiện là hiệu trưởng trường Lê Hồng Phong giai đoạn 1975-1977” – quan hệ đẳng
thức). Tương tự, “Huế là cố đô của Việt
Nam” là một câu định tính; trong khi “Hà Nội là thủ đô của Việt Nam” là một câu
đẳng thức, vì phát ngôn được đưa ra và nhận biết trong thời điểm hiện tại.
Như vậy, có thể thấy rằng, LÀ diễn đạt quan hệ đẳng thức nếu cả NP1 và NP2 đều được tiền giả định đối
với hai bên hội thoại (NP2 là tên riêng hoặc đại từ trực chỉ thì được xem như
đã tiền giả định).
Có một kiểu quan hệ có vẻ rất giống
quan hệ đẳng thức khi ở vị trí của NP1 là một vị ngữ ([VP LÀ NP2]) thay vì NP1; khi đó, vị ngữ
làm Đề diễn đạt một hành động, tính chất, trạng thái của chính chủ thể hoặc đối
tượng mà NP2 nêu ra. Chẳng hạn:
(24) a. Đánh bé Na là thằng
Tèo. b. Ngồi hàng trên là những
quan chức cấp cao.
c. Vui nhất là mẹ cô. d. Khó (học)
nhất là tiếng Ả Rập.
Thoạt nhìn, có vẻ như VP là thành phần
định ngữ trong biểu thức NP1 (“(người) đánh bé Na”, “(những người) ngồi hàng
trên”, “(người) vui nhất”, “(thứ tiếng) khó nhất”), danh từ trung tâm đứng trước
đã được lược bỏ. Tuy nhiên, về mặt ngữ pháp, cấu trúc đẳng thức thiết lập mối
quan hệ nhận diện giữa hai sự vật, còn cấu trúc định tính loại này thiết lập
quan hệ giữa một hành động, trạng thái với một sự vật; nghĩa là không thể đồng
nhất chúng với nhau. Khái niệm đẳng thức không thích hợp. So sánh thêm:
(25) a. Người sinh tôi là mẹ tôi, nhưng người nuôi dạy tôi là má Hai.
b. Sinh ra tôi
là mẹ tôi, nhưng nuôi dạy tôi là má Hai.
c. Đẩy thuyền
là dân, lật thuyền cũng là dân.
Ở (25a) hai
Đề đều là “người…”, ta có quan hệ đẳng thức. Trong khi đó, ở (25b), người nói
không nói về “người” mà nói về hai quá trình khác nhau: “sinh” và “nuôi dạy”;
do đó (25b) có quan hệ định tính: người nói gán thực thể (là chủ thể hoặc đối
tượng) cho một hành động/trạng thái đã được tiền giả định. Ở (25c) càng rõ hơn:
tác giả không nói về “người” mà chỉ muốn nói về quá trình “đẩy thuyền”, “lật
thuyền”.
Trong trường hợp VP là một biểu thức diễn đạt trạng thái tâm lý, cảm
xúc, có khi NP2 là đương thể (thực thể mang trạng thái, carrier), cũng có khi là
đối thể của VP.
(26) (Bọn đó đứa nào cũng ra vẻ sành điệu.)
a. Đáng ghét nhất là con bé Lan. b.
Ghét nhất là con bé Lan.
Câu (26a) là một cấu trúc định tính, “con bé Lan” là đương thể (mang thuộc
tính “đáng ghét nhất”). Câu (26b) chủ thể (vắng mặt) của “ghét” là người nói,
“con bé Lan” là đối thể; nhưng trong ngữ cảnh nào đó, chẳng hạn khi trước nó là
một phát ngôn như “Thái độ của bọn đó ai cũng ghét” (“con bé Lan” là một trong
số “bọn đó”) thì ở (26b) đương thể sẽ là “con bé Lan”. Dĩ nhiên, tình trạng mơ
hồ này chỉ có khi NP2 biểu thị người.
Về hình thức, các câu (24) hoàn toàn không phải là hiện tượng đảo ngữ (“chủ
ngữ” chuyển ra phía sau) để “nhấn mạnh”. Lý do là NP2 có thể là một danh ngữ bất
định, tức là NP2 không thể đứng ở vị trí của Đề:
(27) a. Đánh bé Na là một đứa bé
trai. b.
*Một đứa bé trai là đánh bé Na.
Và sự tình
diễn đạt bằng vị ngữ phải được tiền giả định tồn tại trong diễn ngôn (đã có hoặc
sẽ có ai đó “đánh bé Na”, có thứ tiếng nào đó “khó (học) nhất”…), và người nói
chỉ ra thực thể có liên quan.
Hơn nữa, khi giữ chức năng Đề, vị ngữ – đặc biệt khi trung tâm của nó là
một vị từ tĩnh – thường phải được đánh dấu tính hữu tận (finite) bằng một bổ ngữ
nào đó hoặc bằng những từ ngữ như nhất,
hơn cả, cuối cùng, sau chót, đủ để xác định thực thể được nói đến. So sánh
(24) với các câu (28):
(28) a. ?Đánh là thằng Tèo. b. ?Ngồi là những quan
chức cấp cao.
c. ?Vui là mẹ cô. d. ?Khó là tiếng Ả Rập.
e.
?Vui trong lòng là mẹ cô. f.
?Khó sao đó là tiếng Ả Rập.
Từ những điều trình bày trên đây, có thể thấy sự phân biệt giữa LÀ đẳng thức và LÀ định tính không phải là sự
phân biệt về ngữ pháp mà là về ngữ dụng, vì nó phụ thuộc vào tình huống giao tiếp
hoặc ngữ cảnh: nội dung biểu hiện của NP2 phải được giả định tồn tại, và người
nói dùng nó để nhận diện NP1 (đồng nhất chúng với nhau).
Khả năng hoán vị
trong quan hệ đẳng thức
Liên quan đến quan hệ đẳng thức, có một vấn đề đã được nhiều nhà nghiên
cứu lưu ý. Đó là khả năng hoán vị giữa NP1 và NP2. Trên thực tế, khả năng hoán
vị là có thật, do NP1 và NP2 tương đương với nhau về ngoại diên, theo kiểu đẳng
thức toán học: [NP1 = NP2 → NP2 = NP1]. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ, hoán vị sẽ tạo
ra hai phát ngôn hoàn toàn khác nhau về logic-ngôn từ, dù khả chấp về ngữ pháp.
Ví dụ:
(29) a. Sao Hôm là sao
Mai. b.
Sao Mai là sao Hôm.
c. Sao này là sao
Hôm. d.
Sao này là sao Mai.
e. Sao Mai chính
là sao Kim. f. Carbon
dioxide là khí CO2.
Trong tình huống giao tiếp cụ thể (chẳng hạn: khi nhìn lên bầu trời vào
chiều tối, thấy một ngôi sao sáng lấp lánh) câu (29a, c) sẽ được chọn chứ không
phải (29b, d). Với một học sinh phổ thông bình thường đã học về “sao Kim”, “khí
CO2”, lần đầu nghe tên gọi “sao Mai”, “carbon dioxide” thì hai tên gọi
này sẽ là xuất phát điểm để có những phát ngôn như (29e) và (29f) chứ không phải
là dạng hoán vị của chúng.
Đặc biệt, việc hoán vị sẽ làm tổn hại đến tính mạch lạc của diễn ngôn:
(30) a. Nguyễn Du sinh ngày 23
tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 3 tháng 1 năm 1766). Cha của Nguyễn Du là Nguyễn
Nghiễm, làm quan đến chức Đại Tư đồ. Mẹ là bà Trần Thị Tần, con gái một người
làm chức Câu kê.
b. ??(…) Nguyễn Nghiễm là cha của Nguyễn Du, làm quan đến chức Đại Tư đồ.
Bà Trần Thị Tần là mẹ, con gái một người làm chức Câu kê.
Như vậy, trong một diễn ngôn về Việt Nam, có thể dự đoán, những phát
ngôn như “Thủ đô của Việt Nam là Hà Nội”, “Dân số Việt Nam là 100 triệu người”
sẽ mạch lạc hơn là “Hà Nội là thủ đô của Việt Nam”, “100 triệu người là dân số
của Việt Nam”, trừ khi người nói có dụng ý riêng.
Ở các cấu trúc định nghĩa, khả năng hoán vị cũng bị giới hạn tương tự.
Chẳng hạn, người ta thường nói về “thủy ngân” chứ không nói về “nguyên tố hóa học
có số hiệu nguyên tử 80”, cho nên không có ngữ cảnh giao tiếp thông thường cho
(31b) (không kể trong các cuộc thi hoặc đố vui).
(31) a. Thủy ngân là
nguyên tố hóa học có số hiệu nguyên tử 80.
b. Nguyên tố hóa
học có số hiệu nguyên tử 80 là thủy ngân.
Cần chú ý, câu trùng ngôn (tautologic) hoàn toàn không phải là câu đẳng
thức, mặc dù hình thức của NP1 và NP2 đồng nhất, vì nội dung biểu hiện của nó
cũng là quan hệ nhận diện thuộc tính.
(31) a. Luật là luật. b.
Đàn bà vẫn là đàn bà.
Ở (31a), từ “luật” thứ nhất là đối tượng cần nhận diện (có thể hiểu:
“cái luật áp dụng trong trường hợp này”, “cái luật mà chúng ta đang nói đến”),
từ “luật” thứ hai biểu thị những thuộc tính vốn có của “luật”, là sự nghiêm
minh, bất biến; vì vậy (31a) có hàm ý là không thể tùy tiện, không thể du di.
Tương tự, ở (31b) “đàn bà” thứ hai biểu thị những thuộc tính vốn có của “chủng
loại” “đàn bà”; như vậy, (31b) cho biết cái cá thể hoặc tập hợp “đàn bà” cần nhận
diện (đối tượng đang nói đến) vẫn mang thuộc tính của “đàn bà”, hàm ý rằng
không có gì khác biệt, không có gì đáng ngạc nhiên. Như vậy, ở kiểu câu được gọi
là trùng ngôn hoàn toàn này vẫn là quy gán định tính.([17])
Quan hệ định tính cũng bao gồm cả kiểu câu mà về hình thức có vẻ như NP1
bao hàm NP2, do NP2 chính là NP1 có thêm định ngữ. (Cao Xuân Hạo cũng xem đây
là kiểu câu trùng ngôn: “Con cò là con cò quăm”). Ví dụ:
(32) a. (- Tôi làm theo hợp đồng,
đúng luật.) - Luật là luật rừng, hợp đồng là hợp đồng ma, ai mà không biết!
b. (- Anh ta đã
có nhà, có xe rồi.) - Nhưng nhà là nhà mướn, xe là xe thuê.
Những câu như (32) NP1 bao giờ cũng biểu thị thực thể xác định, đã tồn tại
trong ngữ cảnh; và nó được quy gán thuộc tính chủng loại biểu thị ở NP2. Kiểu
câu này được dùng khi phản bác ý kiến của người đối thoại rằng “luật/hợp đồng của
anh”, “nhà/xe mà anh nói” thuộc loại “rừng/ma”, “thuê mướn”; nghĩa là NP1 vẫn
thuộc phạm vi bao hàm của “chủng loại” NP2.
3.3. LÀ diễn đạt quan hệ định lượng
Sự vật hay sự việc tồn tại trong thế giới khách quan mang thuộc tính về
lượng. Chẳng hạn, thuộc tính về lượng của một ngôi nhà có thể là chiều cao từ nền
đến mái, bề ngang, bề dài, diện tích, số tầng, số phòng, giá tiền; của một chiếc
xe là số ghế, giá tiền, thể tích xi lanh, chiều cao gầm, dung tích bình xăng; của
một cuộc họp là số người tham dự, số nội dung luận bàn, thời gian họp, v.v.. Để
nhận diện đối tượng, thuộc tính lượng cũng là tham số quan yếu.
Trong tiếng Việt, LÀ là vị từ diễn đạt quan hệ thuộc tính lượng của đối tượng, với cấu trúc
[Đề (NP/VP) - Thuyết (LÀ Số ngữ)], trong đó số ngữ (numberal phrase) được hiểu là một ngữ đoạn
biểu thị số lượng (hoặc tỉ lệ), có thể bao gồm danh từ đơn vị hoặc không (2.000
(hai ngàn), 2 kí, 37%). Ví dụ:
(33) a. Chiều cao của
tháp Eiffel là 300m. b.
Sĩ số của lớp này là 30.
c. Gạo lứt trắng giá là 30.000 đồng/kg. d.
Lớp này sĩ số là 30.
Mỗi đối tượng có thể có rất nhiều chiều kích khác nhau, nghĩa là gắn liền
với hàng loạt thông số khác nhau. Danh ngữ biểu thị chiều kích của đối tượng đứng
làm Đề của câu (33a, b), làm tiểu Đề của câu (33c, d). Danh ngữ biểu thị đối tượng
có thể trực tiếp đứng làm Đề cho phần Thuyết khi số ngữ không gây nhầm lẫn về
chiều kích (chẳng hạn, câu (33a) không cần “chiều cao”, (33c) không cần từ
“giá”).
Xét hai câu sau đây:
(34) a. Căn nhà này 80m2. b. Căn nhà
này là 80m2.
c. Thời
gian trình bày là 10 phút. d. Tỉ số đẹp nhất là 1-1.
e. Khối
lượng cát đã khai thác là 40m3.
Với số ngữ “80m2” chiều
kích được đề cập dĩ nhiên là diện tích chứ không thể là chiều kích nào khác,
cho nên “diện tích” không cần có mặt. Tuy nhiên, câu (34a) là một phát ngôn
miêu tả tự nhiên, thông thường hơn (34b), vì trong tiếng Việt số ngữ hành chức
không khác gì vị ngữ biểu thị đặc trưng, tức là có thể tự lập làm Thuyết (“Thằng
bé 12 tuổi”, “Nhóm tôi 4 người”, Mỗi buổi học 50 phút”).
Trong khi đó, (34b) chỉ được dùng khi người nói luận về diện tích
ngôi nhà, hoặc ngữ cảnh cho biết rằng có tồn tại một (diện tích) “80m2”
và người nói quy gán nó cho “căn nhà này” (cp. (16) – (18)). Sở dĩ (34a) và (34b)
có vẻ giống nhau là vì nội dung của phát ngôn liên quan đến những đối tượng và
chiều kích quen thuộc, bình thường trong cuộc sống chung quanh. Nếu là những đối
tượng và chiều kích khác thì LÀ bắt buộc có mặt (34c, d, e), vì số ngữ trả lời trực tiếp cho câu hỏi “…
là bao nhiêu?”.
Cách diễn giải này cho thấy quan hệ định lượng rất giống quan hệ định
tính, chỉ khác ở chỗ thực thể được gán thuộc tính lượng. Điều này thể hiện rõ
hơn khi Đề là số ngữ, là cái đã biết và người nói quy gán cho nó đối tượng hoặc
chiều kích nào đó. Đây là cách dùng tương tự như (12c’) của LÀ.
(35) a. 15 ngàn là dưa kia, dưa này là 25 ngàn. b. Một mét tám là thằng em.
Trong giao tiếp bình thường, số ngữ không thể được đưa ra làm Đề nếu nó
chưa xuất hiện trực tiếp hoặc gián tiếp trong ngữ cảnh trước đó; tức là “15
ngàn”, “một mét tám” phải được nói ra hoặc có trong đầu hai bên giao tiếp trước
khi phát ngôn được đưa ra.
3.4. LÀ diễn đạt quan hệ định vị
Quan hệ định vị được hiểu là mối quan hệ giữa đối tượng với thế giới mà
nó tồn tại, trước hết là không gian, thời gian, ngoài ra có thể là những thực
thể tồn tại ngoài nó.
(36) a. Phía trước nhà
là mảnh vườn nhỏ. b.
Giữa phòng là chậu hoa mai.
Ở (36a, b), NP1 là vị trí (không gian), NP2 là thực thể được gán váo vị
trí đó, “nói về” vị trí đó. Quan hệ định vị bằng LÀ rất khác với quan hệ tồn tại diễn đạt bằng vị từ có: “Phía trước có mảnh
vườn nhỏ”, “ Giữa phòng có chậu hoa
mai”.
Thực ra, có những trường hợp trong thực tế cuộc sống chỉ có quan hệ tồn
tại chứ không có quan hệ định vị. So sánh:
(37) a. Ngoài đường có
nhiều xe máy. b.
??Ngoài đường là nhiều xe máy.
c. Trong
bình có xăng. d.
?Trong bình là xăng.
Câu (37d) bất khả chấp vì không có
tình huống ngữ dụng để định vị cho “xăng” ở bình nhiên liệu trong xe; nhưng sẽ
khả chấp khi “bình” là một vật chứa khác.
Ở quan hệ tồn tại có thể hoán vị thực thể và vị trí, còn ở quan hệ định
vị thì không: “Có chậu hoa mai giữa
phòng”, “Chậu hoa mai có ở giữa
phòng”. Khi phủ định vị từ tồn tại thì phát ngôn có nghĩa là “không tồn tại thực
thể”: “Giữa phòng không có chậu hoa mai”; nhưng khi phủ định vị từ quan
hệ thì phát ngôn có nghĩa là “không phải là thực thể ở vị trí đã biết”. Chính
vì vậy, hình thức phủ định quan hệ luôn có dạng “không phải LÀ…”: “Giữa phòng không phải LÀ chậu hoa mai”.
(Ghi chú: Thực chất, điều vừa nêu có phạm vi bao quát rất lớn chứ không
riêng gì đối với quan hệ định vị. Thậm chí, có thể nói rằng sự vắng mặt phải
trong cấu trúc phủ định chỉ là hiện tượng mang tính tu từ. Chẳng hạn: ??“Bà Lan
không là bác sĩ”, ??“Ông Tú không là một người thợ mộc”, ??“Tòa nhà đó không là
cao nhất Việt Nam”).
Cần phân biệt quan hệ định vị với quan hệ định tính. Khi cả NP1 và NP2 đều
biểu thị vị trí thì NP2 thường là biểu thức định tính diễn giải cho NP1.
(38) a. Quán này là nơi
hò hẹn của họ. c.
Nơi hò hẹn của họ là quán này.
c. Chỗ này là hiện trường vụ tai nạn. d.
Hiện trường vụ tai nạn là chỗ này.
Quan hệ định tính về vị trí không phải là quan hệ định vị như (37), vì
hai lý do: (i) có khả năng hoán vị NP1 và NP2 (dĩ nhiên sẽ thay đổi logic-ngôn
từ), và (ii) không có dạng tồn tại đối ứng với vị từ có như (37) (*“Quán
này có nơi hò hẹn của họ”).
Về thời gian, quan hệ định vị khá đặc biệt: có vẻ trong tri nhận của người
Việt, mỗi thời khắc trên trục thời gian là một thứ thực thể riêng biệt, cho nên
có thể gán thời khắc này cho thời khắc khác hoặc cho sự kiện gì đó, và ngược lại:
(39) a. Ngày cưới là
ngày 27 tháng 10. b. Ngày đó
là đám cưới của Lan.
c.
Môn lịch sử là thứ Năm. d.
Ông Lâm là tiết 3.
Ở các câu (39), NP1 là thời khắc hoặc thực thể được định vị, là “cái được
nói về”, NP2 là thực thể hoặc thời khắc định vị. Trật tự NP1 và NP2 có thể được
hoán đổi (khác với không gian) – phụ thuộc vào logic-ngôn từ. Ở (39c, d), “môn
lịch sử” và “ông Lâm” được định vị ở thời khắc “thứ Năm”, “tiết 3”; chỉ trong
ngữ cảnh giao tiếp người nghe mới có thể nhận ra mối liên quan giữa chúng với
nhau.
Tương tự, quan hệ định vị cũng có thể có giữa hai thực thể được tri nhận
là riêng biệt, nhưng có mối quan hệ nhất định mà hai bên giao tiếp có thể nhận
ra. Chẳng hạn:
(40) a. Môn lịch sử là thầy Quý. b.
Thầy Quý là môn lịch sử.
c. Thầy Hải là khoa Ngôn ngữ. d.
Khoa Ngôn ngữ là thầy Hải.
Ở các câu (40a, b), NP1 được định vị
trong quan hệ với NP2; nhưng chỉ trong giao tiếp nghĩa biểu hiện của phát ngôn
mới được bộc lộ (“môn lịch sử” do “thầy Quý” dạy hoặc “thầy Quý” là người dạy
“môn lịch sử”, nhưng cũng có thể không phải dạy mà là chấm thi, coi thi, v.v.).
Ở (40c) “thầy Hải” được định vị
trong quan hệ với “khoa Ngôn ngữ”, nhưng không phải là quan hệ định loại
(vs. “Thầy Hải là người của khoa Ngôn ngữ”); ở (40d) không thể hiểu rằng “khoa
Ngôn ngữ” đồng nhất với “thầy Hải”([18]). Cả hai câu đều có thể dùng, chẳng hạn, trong một cuộc họp toàn trường
với tất cả đại diện của các khoa, có người hỏi về sự có mặt của “thầy Hải” hoặc
“khoa Ngôn ngữ”; và người nói định vị mối
quan hệ giữa hai thực thể ấy.
Trong quan hệ định vị còn phải kể thêm trường hợp định vị sự tình. Ở câu
miêu thuật, sự tình được biểu thị bằng vị từ, sau vị từ có thể có bổ ngữ (tham
tố) vị trí, thời gian. Ở câu định vị, từ LÀ sẽ thuyết hóa (rhematized) thành phần này và nó trở thành tiêu điểm
thông tin. So sánh:
(41) a. Họ gặp nhau lần cuối ở tòa
án. b.
Họ gặp nhau lần cuối là ở tòa án.
c. Họ tốt nghiệp ngày 13 tháng này. d.
Họ tốt nghiệp là ngày 13 tháng này.
Cần chú ý, trừ khi ngữ cảnh cho phép, còn thì sự tình càng xác định càng
có khả năng làm Đề. Do vậy “Họ gặp nhau lần cuối là ở tòa án” ít bị hạn
định bởi ngữ cảnh hơn “Họ gặp nhau là ở tòa án”. Khi sự tình, vốn được biểu thị
bằng một tiểu cú, được thực thể hóa dưới hình thức một danh ngữ thì càng dễ
đánh dấu tính xác định: “Lần gặp cuối là ở tòa án”, “Vụ đó là ở tòa án”, “Lễ tốt
nghiệp là ngày 13 tháng này”.
Thuộc quan hệ định vị còn thể hiện ở những cấu trúc có phần Đề là những
biểu thức biểu thị trình tự của các đối tượng liên quan (số thứ tự (một là…, hai là…), danh từ chỉ vị trí (trước là…, sau là…, trên là…, dưới là…))
hoặc một ngữ đoạn hồi chỉ, khứ chỉ (trên
đây là…, dưới đây là…).
(42) a. Một là thành công, hai là
thành nhân.
b. Trước là thăm
anh, sau là muốn thưa với anh một chuyện…
c.
Trên đây là những nội dung chúng ta cần chú ý.
3.5. LÀ diễn đạt quan hệ định luận
Trong quan hệ định tính, LÀ nhận diện đối tượng là thực thể (mà Đề nêu ra) bằng cách gán thuộc tính
cho nó. LÀ sẽ diễn đạt quan hệ định luận
khi phần Đề là một vị ngữ (VP1) hoặc tiểu cú (C1) biểu thị trạng thái, hành động
hoặc sự tình là đối tượng bàn luận, và phần bổ ngữ sau LÀ là một danh ngữ (NP2) hoặc vị
ngữ (VP2) hoặc tiểu cú (C2) biểu thị nội dung bàn luận về đối tượng liên quan,
theo góc nhìn của người nói. Về
ngữ nghĩa, có vẻ như vị ngữ hoặc tiểu cú không biểu thị thực thể hay sự vật, do
đó không thể định tính cho nó mà chỉ có thể bình về nó hoặc đánh giá nó.
Có hai trường hợp:
Thứ nhất, phần Đề là một vị ngữ (VP), được trình bày không
khác gì với một ngữ định danh (term), phần bổ ngữ là NP2 biểu thị phạm trù thực
thể được quy gán cho Đề – giống như định nghĩa trong các từ điển.
Vị từ là từ loại có chức năng miêu tả các quá trình tồn tại, hoạt động hoặc
quan hệ của các thực thể trong thế giới
khả hữu, và chỉ trong các quá trình ấy mới có ý niệm về đi, chạy, nằm, đánh,
đón, đẹp, xấu, to, nhỏ, v.v.. Dựa vào kinh nghiệm, các quá trình có thể được
trừu tượng hóa như là những tồn tại “tự lập”, nghĩa là không nhất thiết phải gắn
với thực thể. Trong cấu trúc định luận, LÀ được người nói sử dụng để báo trước rằng điều sắp được nói ra là suy
nghĩ, nhận định của mình về những quá trình đã được trừu tượng hóa “tự lập” ấy.
(Kiểu cấu trúc này mang dáng dấp của một định nghĩa).
(43) a. Đẹp là một lợi
thế trong khi tìm việc làm.
b. ??Làm đẹp là một lợi thế trong khi tìm việc làm.
b’. Làm đẹp là cách tạo lợi thế trong khi tìm việc làm.
b’’. Làm đẹp là nhu cầu tự nhiên của con người, bất kể giới tính.
c. Chạy bộ mới là cách đốt mỡ thừa hiệu quả nhất.
c’. Chạy bộ với tốc độ 10 mới là cách đốt mỡ thừa hiệu quả nhất.
d. Im lặng trong tình thế này là thái độ khôn ngoan.
e. Tăng lương cơ bản không phải là chuyện dễ.
Ở các câu trên, VP làm Đề không phải là hành động, trạng thái của một thực
thể đã được tiền giả định: “đẹp”, “làm đẹp”, “chạy bộ” là những hành động, trạng
thái vô tận (non-finite), không gắn với bất cứ thực thể nào. Nói cách khác, VP không
phản ánh trạng thái/hành động cụ thể nào trong thế giới khách quan mà chỉ diễn
đạt ý niệm về trạng thái/hành động. Người nói quy nó về một phạm trù nhất định (“cách”,
“chuyện”, “lợi thế”, “thái độ”) và gán thuộc tính cho nó. Trong tiếng Việt, VP (43a,
b, c) làm Đề tuyệt nhiên không phải và không cần danh hóa, bởi vì phẩm chất, hoạt
động, sự tình (khi không được diễn đạt như nhận định của người nói tại thời điểm
giao tiếp) hoàn toàn có thể tri nhận không khác gì những khái niệm biểu thị thực
thể.
So sánh (43b) và (43b’, b’’) để có thể thấy rõ hơn: Câu (43b) có vẻ bất ổn,
do hành động “làm đẹp” được đặt trong quan hệ với “trạng thái” (có “lợi thế” so
với người khác); trong khi ở (43b’) và (43b’’)
được xử lý thích hợp, vì “làm đẹp” được đặt trong quan hệ với “cách thức”, “phẩm
chất”. Dĩ nhiên, nghĩa của một vị ngữ cụ thể sẽ thích hợp với phạm trù (= chủng
loại) này hoặc khác. Chẳng hạn, “đấu giá (tài sản)” có thể là một hình thức, một
quá trình, một phương thức; “công chứng” là một hoạt động, một hình thức, một
việc…
Sau LÀ định luận cũng có thể là vị
ngữ [VP1 LÀ VP2], khác với các câu (43) ở
chỗ người nói trực tiếp dùng vị ngữ VP2 để đánh giá về VP1.
(44) a. Nói lắp bắp chính
là thiếu tự tin. b.
Không khóc đã là giỏi.
c. Trả lời như vậy thật là vô trách nhiệm. d. Ăn chay đúng là khỏe ra.
Ở các câu (44) người nói vẫn có thể
đặt một danh ngữ trước VP2 để hiển ngôn phạm trù thuộc tính (để làm cho nó có
màu sắc “định nghĩa” hơn); chẳng hạn: “dấu hiệu”, “thái độ”, “người”, “trạng
thái”, v.v., tùy thuộc vào nghĩa từ vựng của các ngữ đoạn liên quan.
Thứ hai, phần Đề là một tiểu cú (C1). Trong phạm vi quan hệ định
luận, đây là trường hợp phức tạp nhất.
Khi Đề là tiểu cú, bổ ngữ là NP thì quan hệ định luận có thể diễn giải
như (43). Chẳng hạn:
(45) a. Nó trốn học chỉ là chuyện
nhỏ, nó nói dối mới là chuyện nghiêm trọng.
b. Con bỏ vào phòng giữa bữa ăn như vậy là thái độ bất lịch sự.
c. Chị Lan làm được 10 sản phẩm trong một ca là kết quả đáng khích lệ.
Ở (45) các C1 làm Đề biểu thị sự tình đã được hậu cảnh hóa
(backgrounding) chứ không phải là thông báo của người nói tại thời điểm giao tiếp.
Do vậy, chúng hành chức không khác gì với các VP ở (43), cho dù vẫn có đối tượng-thực
thể (tiểu Đề) trên bề mặt: nghĩa biểu hiện của câu vẫn là đánh giá những hành động,
trạng thái nêu ở C1. Nếu bỏ qua tiểu Đề (“nó”, “con”, “chị Lan”) thì các câu
trên giống với (43): có vẻ như người nói định luận chính hành động (“trốn học”,
“bỏ vào phòng giữa bữa ăn”, “làm được 10 sản phẩm”) chứ không phải sự tình “ai
đó làm gì đó”.
Khi Đề là C1, bổ ngữ là VP thì tình hình cũng tương tự như (43): người
nói đánh giá, giải thích về sự tình nêu ở phần Đề hoặc đưa ra suy luận từ nó,
và nhiều khi LÀ có chức năng của Thuyết tình
thái. Chẳng hạn:
(46) a. Nó hút thuốc là không được. b. Chó mà thả rông là bị
phạt đấy!
c. Vợ chồng cãi
nhau là thường. d. Bài này
được 5 điểm là cùng.
Đề của các
câu (45), (46) có cấu trúc của một sự tình, không có dáng vẻ “định nghĩa”,
“khái quát” như (43).
Khi Đề và bổ ngữ của câu đều là tiểu cú (C1 và C2) thì quan hệ định luận
khó nhận diện hơn.
(47) a. Nó hút thuốc là (nó) học
theo bạn xấu. b.
Nó hút thuốc là nó lớn rồi.
c. Tôi đánh nó chỉ là (tôi) muốn dằn mặt nó. d. Tôi đánh nó là tôi dạy nó.
e. Anh nói vậy là anh hại tôi rồi.
f. Em không cho bạn xem bài chính là em giúp bạn đấy!
Ở các câu trên, tất cả C2 đều là những sự tình (hạ cấp) được người nói
dùng để diễn giải (interprete) sự tình ở C1 hoặc rút ra kết luận (suy diễn,
deductive) từ sự tình C1. Nếu câu định luận có thể tách ra thành hai câu hoặc
chuyển thành câu ghép, bằng cách đặt đại từ hồi chỉ vậy/thế trước phần
Thuyết thì mối quan hệ sẽ rõ hơn. Chẳng hạn:
(48) a. Nó hút thuốc, vậy
là nó học theo bạn xấu.
b. Anh đã không bật xi nhan. Vậy là anh có lỗi.
Hệ quả là những bổ ngữ/trạng ngữ
chỉ nguyên do, mục đích đều có thể “thuyết hóa” (rhematized) nếu có LÀ đứng trước. Lúc này quan hệ định
luận giữa hai sự tình sẽ được hiển ngôn nhờ vào sự có mặt của các giới từ (vì,
do, tại, nhờ, để, nhằm) hoặc danh từ (nguyên nhân, lý do, mục đích, mục
tiêu), ví dụ:
(49) a. Nó đi học là để bố mẹ nó vui. b.
Nó nghỉ học là vì nhà nó nghèo.
c.
Bố mẹ ly hôn là nguyên nhân nó bỏ học.
d.
Ông ấy muốn anh tham gia là mục đích ông ấy đến đây.
Trong quan hệ định luận có những kiểu cấu trúc khá đặc biệt, chẳng hạn:
(50) a. Tôi mắng là tôi
mắng con tôi, (mắc mớ gì đến chị?)
b. Tôi nói là (tôi)
nói vậy thôi, (chứ làm sao tôi bỏ nó được?)
c. Tôi bỏ là bỏ
(chứ không dây dưa, níu kéo).
d. Tôi đã bảo bỏ
là bỏ.
Ở (50a), C2 “tôi mắng con tôi” được dùng để diễn giải cho sự tình “tôi mắng”
ở C1, với ý nghĩa rằng hành động “mắng” nhằm vào “con tôi” chứ không phải là ai
khác. Dĩ nhiên, “mắng” ở C1 phải có đối tượng, nhưng đối tượng này không được
hiển ngôn, vì cái mà người nói muốn diễn giải chỉ là bản thân hành động; nếu hiển
ngôn đối tượng “Tôi mắng con tôi là tôi mắng con tôi” ta sẽ có một cấu trúc
trùng ngôn tuyệt nhiên không có tình huống để sử dụng.
Ở (50b) người nói muốn diễn giải về hành động (“nói” ở C1) của mình, với
hàm ý rằng hành động chỉ dừng lại đó (chỉ là “nói” (ở C2)) chứ không kèm theo
hoặc dẫn tới bất cứ hành động nào khác. (50c) khác với (50b), người nói muốn khẳng
định rằng hành động “bỏ” (C1) của mình thực sự là “bỏ” (C2), chứ không phải là
gì khác.
Ở (50d) người nói lại muốn cho biết rằng hành động “bỏ” (C2) đồng nhất với
nội dung thông báo “bỏ” trước đó (C1). Câu (50d) khác ba câu trên ở chỗ chủ thể
của C1 và C2 có thể khác nhau: “Tôi đã bảo bỏ là (nó) bỏ”.
Nói chung, ý nghĩa của những kiểu quan hệ LÀ này tùy thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh.
Phân biệt quan hệ định luận với quan hệ điều kiện([19]) của LÀ
Trong các tài liệu Việt ngữ học, LÀ có thể diễn đạt quan hệ điều kiện giữa hai sự tình, trong đó sự tình thứ
nhất là khung điều kiện, cảnh huống để sự tình thứ hai hiện thực, chẳng hạn:
“Trời mưa là đường ngập”.
Về ngữ nghĩa, ở câu điều kiện có mối quan hệ nhân quả hiển nhiên giữa
hai sự tình còn câu định luận LÀ thì không. Chẳng hạn, ở câu định luận (46a) không thể nói rằng “nó hút
thuốc” là nguyên nhân của “nó học theo bạn xấu”; rất khác câu điều kiện “Nó hút
thuốc là nó ho / nó bị mắng”.
(51) a, Em có chứng chỉ B2 là em được vào năm thứ 2. (điều kiện)
b. Em có chứng
chỉ B2 là em giỏi tiếng Việt lắm. (định luận)
c. Quảng cáo giỏi là khán giả sẽ kéo đến rạp. (điều kiện)
d. Phim anh bán được vé là anh quảng cáo tốt. (định luận)
Câu điều kiện LÀ có hình thức [Đề - LÀ - Thuyết] rất giống câu định luận [Đề - Thuyết (LÀ bổ ngữ)], nhưng LÀ của nó là tiểu từ phân giới Đề-Thuyết
chứ không phải vị từ, cho nên không thể kết hợp với bất cứ yếu tố tình thái nào
trước nó. Trong khi đó, LÀ của câu định luận là một vị từ (đồng thời phân giới Đề-Thuyết) nên có
thể đi sau từ tình thái nào đó, miễn thích hợp; và có thể thêm thì vào
trước nó – dĩ nhiên, lúc đó ngữ pháp và ngữ nghĩa của câu sẽ thay đổi, chẳng hạn:
(52) a. Em có chứng chỉ
B2 thì chắc là em giỏi tiếng Việt lắm.
b. Phim anh bán được vé thì đúng là anh quảng cáo tốt.
Hai câu trên đây chính là câu điều kiện thuộc lĩnh vực nhận thức.
Trong chừng mực nào đó, có thể cho rằng câu điều kiện với LÀ là trường hợp nhân quả của
câu định luận LÀ; trong đó, người nói diễn giải
về C1 bằng cách đưa ra hệ quả “hiện thực”, “tất nhiên”, “trực tiếp”, “tức thì”
của nó. Những yếu tố như hễ, cứ, mỗi khi chỉ có vai trò bổ sung nét
nghĩa về tính tất yếu, tập quán của mối quan hệ nhân quả giữa hai sự tình.
5. Kết luận
Từ LÀ và những vấn đề liên quan đến
nó không phải là mới mẻ đối với giới Việt ngữ học. Các nhà nghiên cứu đi trước
đã có nhiều tiêu chí và lập luận khác nhau để miêu tả nó như là động từ, hệ từ,
kết từ, trợ từ, phụ từ, và gần đây nhất là xem nó như một tác tử cú pháp chuyên
phân giới Đề-Thuyết. Các tác giả cũng đã tìm cách miêu tả ý nghĩa của nó, nhưng
chưa đủ chi tiết và thuyết phục.
Dựa trên thành tựu của những nhà nghiên cứu đi trước, trong bài viết này
chúng tôi đã chứng minh rằng LÀ tiếng Việt thực sự hành chức với tư cách một vị từ trong khi vẫn đảm
đương nhiệm vụ phân giới Đề-Thuyết; nó còn hành chức như một giới từ (“hư hóa”)
trong các phát ngôn diễn đạt quá trình nói năng, suy nghĩ. Về ý nghĩa, LÀ là vị từ quan hệ. Nó đối lập
với vị từ hành động, trạng thái, tư thế, tồn tại ở chỗ nó không miêu tả trực tiếp
thực thể trong quá trình chuyển tác hay vô tác (nghĩa là nó không có quan hệ
tham tố), do đó cũng không miêu tả trực tiếp sự tình diễn ra trong thế giới
khách quan. Nó chỉ định loại, định tính, định lượng, định vị hoặc định luận về
đối tượng trong mối quan hệ mà người nói thiết lập để giúp người nghe nhận diện
đối tượng.
Từ những nội dung trình bày ở trên cho thấy rằng LÀ không phải là từ phụ trợ chỉ
đóng vai trò liên kết chủ ngữ (subject) và bổ ngữ (subjective complement) như to
be tiếng Anh hoặc một “hệ từ” trong thứ tiếng nào khác.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1) Cao Xuân Hạo,
Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng,
Nxb GD, 2004
2) Chim Văn
Bé, Ngữ pháp học chức năng tiếng Việt -
Cú pháp học, Nxb GDVN, Cần Thơ, 2012.
3) Lê Văn Lý, Sơ thảo ngữ pháp tiếng Việt, Trung tâm học
liệu Bộ Giáo dục, Sài Gòn, 1972.
4) Lê Xuân Thại,
Câu chủ - vị tiếng Việt, Nxb KHXH,
H., 1994.
5) Nguyễn Anh
Quế, Hư từ trong tiếng Việt hiện đại,
Nxb KHXH, H., 1988.
6) Nguyễn Đức
Dân, Về cấu trúc “Danh + là + Danh”, Ngôn
ngữ, số 1/1976, H.
7) Nguyễn Đức
Dân, Thảo luận thêm về cấu trúc “Danh + là + Danh”, Ngôn ngữ, số 2/1978, H.
8) Nguyễn Kim
Thản, Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt,
Nxb GD, H., 1977.
9) Nguyễn Vân
Phổ, Ngữ pháp tiếng Việt: ngữ đoạn và từ
loại, Nxb ĐHQG Tp. HCM, 2018.
10) Trần Ngọc
Thêm, Bàn thêm về cấu trúc “Danh + là + Danh”, Ngôn ngữ, số 1/1977, H.
11) Trần Trọng
Kim, Bùi Kỷ và Phạm Duy Khiêm, Việt Nam
văn phạm, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1949.
12) Trương Văn
Chình & Nguyễn Hiến Lê, Khảo luận về
ngữ pháp Việt Nam, Đại học Huế, 1963.
13) Uỷ ban Khoa
học Việt Nam, Ngữ pháp tiếng Việt,
Nxb KHXH, Hà Nội, 1983.
Tiếng Anh:
14) Halliday
M.A.K., An Introduction to Functional
Grammar, 2nd edition, London: Arnold, 1994.
15) Lyons J., Introduction of Theoretical Linguistics,
Cambridge University Press, 1968.
16) Pustet R., Copulas: Universals in the Categorization of the Lexicon, Oxford University
Press, 2003.
[1] Bài đăng trong tạp chí Ngôn ngữ, số 7-8/2024.
[2] Nhiều tác giả
dùng thuật ngữ “vị từ cảm nghĩ” hoặc “vị từ nhận thức” chứ không dùng “vị từ
suy nghĩ”. Tuy nhiên, “cảm nghĩ” và “nhận thức” dễ được hiểu là bao trùm cả tri
giác.
[3] Halliday cho rằng các quá trình nói năng được diễn đạt bằng một phức
cú [cú 1 → cú 2], trong đó [cú 1] “phóng chiếu” (projection) cú 2: nếu cú 2 là
lời dẫn trực tiếp thì giữa hai cú có quan hệ đẳng kết (parataxis), nếu là lời dẫn
gián tiếp thì giữa hai cú có quan hệ phụ kết (hypotaxis) [15: 220].
[4] Thuật ngữ của Chim Văn Bé [3], có thể dùng để phân biệt với từ “miêu tả”
phi thuật ngữ.
[5] Dĩ nhiên, quan hệ giống loài trong ngôn ngữ không trùng với tiêu
chí phân loại khoa học, và nó hoàn toàn đáp ứng nhu cầu giao tiếp vì phù hợp với
nhận thức của người bản ngữ. Chẳng hạn,
“cá voi” trong tiếng Việt được xếp vào loài “cá”, dù đa số người có
chút kiến thức khoa học đều biết đó là động vật có vú, thở bằng phổi; “hổ Đông
Dương”, “hổ Amur” thuộc giống “hổ” (chứ không thuộc giống “báo” như phân loại
khoa học). Trong tiếng Việt, sẽ rất khó hiểu khi nói “Hổ Amur là một giống báo
có thân hình to lớn nhất trong các loài hổ”. Ngoài ra,
cũng cần chú ý rằng, trong tiếng Việt, những danh từ riêng như hồi, thu, đuối,
Phú Quốc, Bắc Hà, ngựa, chó, v.v. thường chỉ được nhận diện sau khi đã xếp
loại chúng là “cá”, “chó” hay là “gấu”.
[6] Do đó, kiểu cấu trúc này trước đây thường được gọi
là “định tính” [1] [2] [9].
[7] Để tránh phức tạp, khái niệm “chủng loại” (class) được dùng với nghĩa
phi thuật ngữ, có thể là chủng loại “cá”, nhưng trong tình huống khác có thể là
chủng loại có nội hàm phong phú hơn như “cá mập”, …, “cá mập đầu búa”, tùy vào
định ngữ phía sau.
[8] Về ngữ
pháp, trừ một số văn cảnh như có thể dùng làm vị từ (thay cho giống
như) còn thì như chỉ được dùng để dẫn nhập một thành phần phụ hoặc
thành phần phụ chú.
[9] Nghĩa là, trong ngữ cảnh hoặc
tình huống giao tiếp phải tồn tại thực thể gọi là “người thợ mộc”, nếu không
danh ngữ này sẽ không đủ thông tin, thay vào đó phải là “người thợ mộc hôm qua”, “người
thợ mộc đó”, v.v..
[10] Chim Văn Bé cho rằng NP1 và NP2 đồng sở chỉ [2: 154].
[11] Cách hiểu
thứ nhất về (14c) là cách hiểu “chỉ trỏ”, còn cách hiểu thứ hai này là cách hiểu
“giới thiệu”, “thuyết minh”.
[12] Thêm một
vài ví dụ về khả năng kết hợp “một… nhất”: “Mỗi người phụ nữ là một bản thể đẹp
nhất của riêng mình”
(tuoitrethudo.com.vn), “…bạn có thể lựa chọn kem nền …
có chứa SPF 30 để bảo vệ làn da một cách tốt nhất” (paulaschoice.vn), “Để có một
giấc ngủ tốt nhất cho sức khỏe của bạn,…” (tuyensinh.tnue.edu.vn), “Hãy dành một giờ ý
nghĩa nhất cho trái đất”
(nangluongvietnam.vn), “Cát Cát là một bản nổi tiếng nhất
ở Sapa...” (vietnambooking.com).
[13] Ký hiệu quy ước: *(x) không thể bỏ yếu tố trong ngoặc, (*x) không thể
thêm yếu tố trong ngoặc.
[14] Ví dụ tương tự: “Ngựa là loài vật chạy nhanh nhất”, “Hổ là loài thú hung
dữ nhất”, “Phở là món ăn nổi tiếng của Việt Nam”, v.v..
[15] Khả năng tỉnh lược này không phải là tùy tiện. Chẳng hạn, trong bối cảnh
nào đó, người nói có thể đưa ra phát ngôn “Con chó tôi mất là cụt đuôi”. Phát
ngôn này chỉ có thể hiểu “Con chó tôi mất là con chó cụt đuôi” chứ không thể
“Con chó tôi mất là loại chó cụt đuôi”.
[16] Danh từ
riêng là cái “nhãn” để gọi tên thực thể có sở chỉ duy nhất, chứ bản thân nó
không biểu thị thuộc tính, nên nó không cho biết chủng loại (mặc dù có thể gợi
ra nghĩa liên tưởng). Vì vậy, khi NP2 là danh từ riêng thì [NP1 LÀ NP2)] diễn đạt quan hệ đẳng thức (x. (3c’)).
[17] Kiểu trùng
ngôn này khác với kiểu “trùng ngôn hoàn toàn” của các định nghĩa khoa học mà
Cao Xuân Hạo đã nói đến, chẳng hạn: “Hình tam giác là một hình có ba góc”. Ở
các định nghĩa khoa học, NP2 biểu thị nội hàm ở dạng đầy đủ của NP1, và có thể
dùng NP2 để nhận diện NP1.
[18] Rất khác với câu nói nổi tiếng của Louis XIV mà Cao Xuân Hạo đã dẫn:
“Nhà nước là ta” [1: 222]
[19] Theo Cao
Xuân Hạo, câu điều kiện là những câu có Đề, Thuyết là hai tiểu cú (hoặc vị ngữ),
trong đó “sự tình thứ nhất là điều kiện của tính hiện thực của sự tình thứ hai” [1: 224].