ĐỔI
Đổi là vị từ biểu hiện hành động hoặc
quá trình bỏ cái này để lấy cái khác hoặc chuyển từ cái này sang cái khác (đó
là những thực thể có thể tri giác được: vật, người, thiết chế, sản phẩm của quá
trình tinh thần, tình cảm).
A. Trong
câu hành động, đổi có tác thể (người
thực hiện hành động) làm đề/chủ ngữ, và có một hoặc hai đối thể (đối tượng bị
tác động) làm bổ ngữ.
Khi hai bổ ngữ
cùng có mặt, có thể dễ dàng xác định đó là đối thể 1 (tạm gọi là “bị
chuyển thể” – cái mà tác thể từ bỏ) hoặc đối thể 2 (tạm gọi là “chuyển
thể” – cái mà tác thể nhận lấy) căn cứ vào các chỉ tố dẫn nhập như ra, thành, lấy, qua, sang.
Ví dụ:
(1) Nó đổi tờ 200 ngàn ra tiền lẻ.
(2) Học sinh phải đổi cấu trúc chủ động thành/qua/sang
cấu trúc bị động.
(3) Người trúng giải không được
đổi tặng phẩm lấy tiền.
(4) Ở nhiều nước, sau khi lấy
chồng, phụ nữ phải đổi họ bố qua/sang
họ chồng.
(5) Hắn gạ đổi tình lấy tiền.
(6) Các nhà tâm lý khuyên nên đổi tình yêu ra tình bạn.
(7) Em chạy ra cửa hàng đổi cái áo này đi. Nó chật quá!
(8) Em mới đổi cái áo này. Chị thấy được không?
(9) Nó đổi ra tiền lẻ.
(10) Nó đổi tiền lẻ.
Nhờ ngữ cảnh, “cái
áo” ở câu (7) là bị chuyển thể, ở câu (8) là chuyển thể. Nhờ yếu tố ra, “tiền lẻ” ở câu (9) là chuyển thể. Riêng
câu (10) thì khác, thường khi đổi tiền, người ta muốn nhận tiền lẻ. Do vậy ở
câu này, “tiền lẻ” được xác định là chuyển thể là dựa vào kinh nghiệm hay kiến
thức nền chứ không dựa vào dấu hiệu ngôn ngữ học.
Trong khi đó, có
những câu chỉn chu về mặt ngữ pháp và cả ngữ nghĩa – nghĩa là không thể nói đó
là những câu mơ hồ – nhưng không thể khẳng định nó là chuyển thể hay bị chuyển thể.
Xét các câu sau:
(11) Xách cái giỏ một lát, thấy
mỏi, nó đổi tay.
(12) Tôi nghĩ là anh ấy đã đổi chỗ làm.
(13) Cô ấy muốn đổi kiểu tóc.
Ở những câu này, sự
tình được đề cập là hành động “đổi”,
và dĩ nhiên khi đổi thì bao giờ cũng
bỏ cái này (cũ) lấy cái kia (mới). Tuy nhiên, không có cơ sở nào để xác định rằng
“tay”, “chỗ làm”, “kiểu tóc” trong câu là bị chuyển thể hay chuyển thể.
Điều vừa nói thể
hiện rõ trong hàng loạt trường hợp, chẳng hạn: đổi người, đổi giám đốc, đổi thầy, đổi phòng, đổi lớp, đổi chân, đổi ca, v.v..
Từ những phân tích
trên, chúng tôi cho rằng có lẽ nên xử lý bổ ngữ duy nhất (thường là danh ngữ tổng
loại, generic) sau đổi là diễn tố phạm vi, khác với đối thể ở các câu
trên. Theo đó, phạm vi thể là một
danh ngữ biểu thị cái phạm vi vật chất mà ở đó sự tình diễn ra.
Việc xác định phạm
vi thể càng thuyết phục hơn khi nó được “thuyết minh” bằng sự cùng có mặt của
hai đối thể (bị chuyển thể – đánh dấu bằng từ,
và chuyển thể – đánh dấu bằng sang, qua, ra). Khi đó, nó rõ ràng là cái “phạm
vi” đóng khung hai đối thể kia. Ví dụ:
(14) Cô ấy đã đổi màu tóc từ đen sang nâu.
(15) Cô ta bắt đầu đổi thái độ, từ hiền lành, mềm
mỏng sang chanh chua, nanh nọc.
Và như vậy, có thể
xem là câu đã tỉnh lược vai phạm vi thể nếu chỉ có mặt hai bổ ngữ với cặp giới
từ tương ứng từ... qua/sang/ra.... Ví
dụ:
(16) Cô ấy đã đổi Ø
từ màu tóc đen sang màu tóc nâu.
(17) Cô ta bắt đầu đổi Ø
từ thái độ hiền lành, mềm mỏng sang thái độ chanh chua, nanh nọc.
Trong cấu trúc
nghĩa của đổi cũng có thể có liên đới
thể (người có liên quan đến hành động đổi,
nhưng không phải là tác thể):
(18) Nó đổi sách với bạn nó.
(19) Chúng tôi đổi chỗ với nhau.
(20) Tôi sẽ đổi ca với anh Nam để được nghỉ ngày
thứ bảy.
Hoặc lợi thể (người hưởng lợi từ hành động đổi):
(21) Nó đổi sách cho bạn nó.
(22) Chúng tôi đổi chỗ cho nhau.
(23) Chị đổi cho tôi 200 ngàn tiền lẻ nhé!
(Chú ý: Nếu mua một cái áo không
vừa ý, chúng ta phải đi đổi thì cửa
hàng hay người bán không được xử lý như liên đới thể, càng không thể là lợi thể.
Nếu có mặt trong câu, nó sẽ là vai vị trí: “Tôi đổi áo ở tiệm Sifa/ở chỗ bà Ba Thu”).
B. Trong
câu quá trình, giống câu hành động, đổi
cũng có một/hai bổ ngữ là đối thể hoặc một bổ ngữ là phạm vi thể. Nhưng khác với
câu hành động, đổi không có tác thể
làm đề/chủ ngữ; mà chỉ có đương thể
(thực thể trải qua quá trình).
Ví dụ:
(24) Chính sách năng lượng của
Kremlin đã đổi hướng sang châu Á.
(25) Cơn bão số 9 có dấu hiệu đổi hướng về phía Đông Bắc.
(26) Ba hồ nằm sát nhau trên đỉnh
một ngọn núi lửa nổi tiếng của Indonesia cùng có khả năng đổi màu độc đáo và được gắn với những truyền thuyết ma quái.
(27) Sông Vu Gia đổi dòng, đe dọa trực tiếp di sản Hội
An.
(28) Trái đất nóng lên làm đổi dòng chảy các đại dương.
Có một điều thú vị
là, trong câu quá trình, giữa đương thể và phạm vi thể có mối quan hệ toàn thể-bộ
phận khá rõ.
(29) Giấy đã đổi màu. → Màu (của) giấy
đã đổi.
(30) Gió sắp đổi hướng/chiều. → Hướng/Chiều (của) gió sắp đổi.
(31) Anh ta đã đổi tính. → Tính (của) anh ta đã đổi.
(Có lẽ nên xem đổi tính là một quá trình hơn là một
hành động. Vì con người khó có thể quyết định tính cách của mình)
THAY
Thay là vị từ hành động hay quá trình đặt
để một vật/người mới vào vị trí của một vật/người không còn thích hợp.
Đối tượng của hành
động thay bao giờ cũng là một vật hay
một người chứ không thể là một thuộc tính, trạng thái. Kết quả của hành động thay sẽ là một vật/người mới ở vào vị
trí hay cương vị của một vật/người cũ nhằm thỏa mãn một mục đích nào đó.
Tương tự như đổi, thay
có hai cách dùng: có tác thể (câu hành động) và không có tác thể (câu quá
trình).
(32) Cô ấy đang thay áo/đồ.
(33) Họ đã thay vỏ xe/trà/nước/khóa/khăn rồi.
(34) Vỏ bánh trước thay rồi, vỏ bánh sau chưa thay.
(35) Nước hồ mới thay nên sạch lắm!
A.
Trong khung ngữ nghĩa của hành động thay, ngoài tác thể làm đề/chủ ngữ, có
thể có hai bổ ngữ: bị chuyển thể và chuyển thể.
(36) Ông giám đốc đã quyết định
thay anh chàng trợ lý cũ bằng một cô
sinh viên mới tốt nghiệp.
(37) Chị quyết định thay đồ gỗ bằng đồ mây.
(38) Ông giám đốc quyết định thay cô Lan vào chỗ anh Kim.
(39) Chị quyết định thay đồ mây vào chỗ bàn ghế gỗ đã có.
(40) Chị quyết định mua đồ mây thay cho mấy bộ bàn ghế gỗ cũ kỹ.
Trong những câu
trên, một trong hai bổ ngữ được đánh dấu bằng các chỉ tố dẫn nhập: bằng, vào, cho.
Khi chỉ có một bổ
ngữ hiện diện, giống như trường hợp của đổi,
rất khó xác định ngữ nghĩa của nó.
Thông thường, vật/người
thay vào là vật/người mới, vật/người được thay ra là vật/người cũ, không còn
giá trị sử dụng. Tuy nhiên, nếu không có ngữ cảnh, tình huống hoặc chỉ tố đánh
dấu thì sẽ khó xác định đó là mới (chuyển thể) hay cũ (bị chuyển thể). Chẳng hạn:
(41) Anh đã thay vỏ xe.
(42) Anh thay vỏ xe Hóc Môn đi!
(43) Anh thay cái vỏ Hóc Môn vào đi!
(44) Anh thay vỏ bánh trước đi!
Ở câu (41), “vỏ
xe” không thể xác định là bị chuyển thể hay chuyển thể. Ở câu (42), “vỏ xe Hóc
Môn” có thể hiểu là chuyển thể; nếu có mặt vào
thì khả năng này là chắc chắn. Ở câu (44), “vỏ bánh trước” có thể là bị chuyển
thể.
Tương tự như ở đổi, nếu không có dấu hiệu hiển ngôn,
chúng tôi cho rằng có lẽ nên xử lý vai nghĩa này là phạm vi thể – có thể là thực thể, có thể là vị trí mà ở đó diễn ra
hành động thay.
Nếu trước và sau thay là hai danh ngữ biểu thị người thì
ta có một cấu trúc khác hẳn về hình thức: lúc này, tác thể thực hiện cái hành động
tự đặt mình (chuyển thể) vào vị trí của một đối tượng khác (bị chuyển thể),
nhưng danh ngữ chuyển thể không có mặt trong phát ngôn. Và sau thay thường xuất hiện một bổ ngữ biểu thị
mục đích của hành động thay. Cấu trúc
này có dạng chung là [(ai) thay (ai)
(làm gì)].
(45) Nghe nói, năm sau ông Quân
sẽ thay ông Vũ làm trưởng phòng tài vụ.
(46) Tôi sẽ thay anh chăm sóc hai bác. Anh đừng lo!
Chú ý:
Ngữ vị từ thay mặt là một biểu hiện đặc biệt của thay ở trường hợp vừa nói. Tuy nhiên, có
sự khác biệt về nghĩa: “A thay mặt B” tức là “A thay B”, nhưng chỉ thay
trong một công việc cụ thể nào đó. Công việc đó kết thúc thì đồng thời hành động
thay cũng chấm dứt, B trở lại cương vị
cũ của mình.
Như vậy, nếu bổ ngữ
thứ hai không phải là một công việc cụ thể mà là một cương vị thì không thể
dùng thay mặt.
Ví dụ:
(47) a. *Ông
Quân sẽ thay mặt ông Vũ làm trưởng phòng tài vụ.
b.
Ông Quân sẽ thay mặt ông Vũ xin lỗi khách hàng.
(48) a. *Anh
Hà thay mặt ông Kính làm nhân viên bảo vệ của công ty.
b. Anh Hà thay mặt ông Kính tham dự
cuộc họp trên tổng công ty.
Cách phân tích
trên cho phép giải thích trường hợp thay
xuất hiện cùng với một vị từ khác với tư cách là một đồng vị ngữ.
So sánh các câu
sau:
(49) a. Phó
giám đốc có thể ký thay giám đốc.
b.
Phó giám đốc có thể ký thay giám đốc văn
bản này.
(50) a. Phó
giám đốc có thể ký văn bản này thay
giám đốc.
b.
Phó giám đốc có thể thay giám đốc ký
văn bản này.
Từ các câu (45-46)
có thể nói ký và thay là hai vị từ độc lập tương đối về mặt ngữ pháp (mỗi vị từ có một
bổ ngữ riêng, và có khả năng chuyển vị khá tự do). Tuy nhiên, về ngữ nghĩa, giữa
hai vị từ này có một mối quan hệ đồng hiện khá đặc biệt: khi ký tên vào văn bản phó giám đốc đã làm
cái việc là thay giám đốc, và phó
giám đốc thay giám đốc ở cái việc là ký tên vào văn bản.
Nghĩa là không có
quan hệ trật tự trước sau, không có quan hệ nhân quả, và cũng không có quan hệ
mục đích (đánh dấu bằng để) giữa hai
vị từ này. (Chỉ riêng câu (46b) mới có thể có quan hệ mục đích, tức là có để: “Phó GĐ thay GĐ (để) làm gì?” – “Phó GĐ thay
GĐ để
ký văn bản này”. Tuy nhiên, e rằng đây không phải là cách diễn đạt tự nhiên).
Ký thay rất khác với những chuỗi vị từ kiểu như mua ăn, mua về ăn, bẻ gãy, gật đầu chào,
v.v.. Có vẻ giống với dạy học, nhưng dạy học có thể là hai hoạt động tách rời
nhau (Tôi dạy nó mà nó không học) và không thể thay đổi trật tự.
Hiện tượng đồng hiện này có lẽ cần
được nghiên cứu thêm.
B.
Thay
cũng có khi xuất hiện trong câu biểu hiện quá trình. Khi đó, tác thể không có mặt
ở vị trí đề/chủ ngữ của câu mà một diễn tố khác được đề bạt vào vị trí này. Tuy
nhiên, các vai nghĩa trong câu rất phức tạp, chỉ có thể dựa vào ngữ cảnh để xác
định. (Có lẽ hành chức như một vị từ quá trình không phải là đặc trưng quan trọng
của thay?)
Thử xét các câu
sau:
(51) a. Cái
bàn này chưa thay khăn.
b.
Cái khăn bàn này chưa thay.
c.
Cái khăn bàn này thay rồi.
(52) a. Cái
đồng hồ này phải thay dây.
b.
Sợi dây đồng hồ này phải thay.
c.
Sợi dây đồng hồ này mới thay.
Ở các câu (a), đề/chủ
ngữ có thể xem là đương thể, bổ ngữ là chuyển thể (vì danh ngữ này có thể chỉ định
“khăn mới”, “dây mới” chứ không thể “khăn cũ”, “dây cũ”), vì có dấu hiệu “chưa”.
Ở các câu (b), đề/chủ
ngữ có thể xem là bị chuyển thể (vì danh ngữ này biểu thị vật cũ, dấu hiệu: “chưa”, “phải”).
Ở các câu (c), đề/chủ
ngữ lại là chuyển thể (vật mới, dấu hiệu: “rồi”,
“mới”).
Nếu liên quan đến
người thì tình hình còn phức tạp hơn.
Thử xét các câu
sau:
(53) (– Ông giám đốc thay hết các trưởng phòng rồi à?)
a.
– Không, trưởng phòng tiếp thị chưa thay.
b.
– ??Không, bà trưởng phòng tiếp thị chưa thay.
c.
– ??Không, bà Lan chưa thay. (“bà Lan” là trưởng phòng tiếp thị cũ)
(54) (– Ông giám đốc mới đã thay trưởng phòng nào?)
a.
– Trưởng phòng tiếp thị thay rồi.
b.
– ??Bà trưởng phòng tiếp thị thay rồi.
c.
– ??Bà Lan thay
rồi.
Các câu (a) chuẩn
tắc, nhưng danh ngữ làm đề/chủ ngữ (“trưởng phòng tiếp thị”) không rõ nên hiểu
là một thực thể người hay là một cương vị. Trong khi đó, các câu (b) và (c) có
danh ngữ làm đề/chủ ngữ có sở chỉ hẳn hoi nhưng không được xem là chuẩn tắc.
Do vậy, chúng tôi
cho rằng ở các câu (a), danh ngữ làm đề/chủ ngữ nên được xem là cương vị chứ
không phải thực thể người – theo phân tích ở phần trên, có thể gọi nó là phạm
vi thể.
Bây giờ, nếu ở các
ví dụ trên, đặt vị từ tình thái “ý nghĩa bị động” (được, bị) vào trước thay
thì câu hoàn toàn tự nhiên:
(55) a. –
Không, trưởng phòng tiếp thị chưa bị thay.
b.
– Không, bà trưởng phòng tiếp thị chưa bị thay.
c.
– Không, bà Lan chưa bị thay.
(56) a. –
Trưởng phòng tiếp thị bị thay rồi.
b.
– Bà trưởng phòng tiếp thị bị thay rồi.
c.
– Bà Lan bị thay rồi.
Trong khi đó, hai
vị từ được, bị nếu đặt vào những câu
(51-52) nói về vật thì tình hình không có gì khác (với khi không có được, bị).
Như vậy, có thể
cho rằng, khi nói về người, danh ngữ làm đề/chủ ngữ trong những câu có được, bị là bị chuyển thể (“vật cũ”).
Nói thêm về sự phân biệt thay và đổi.
Có
thể hình dung một cách đơn giản: Đổi
và thay đều liên quan đến hai vật/người;
thay là bỏ vật/người cũ, lấy vật/người
mới; có một hàm ý: đặt để vật/người mới vào vị trí/cương vị của vật/người cũ là
điều cần thiết vì vật/người cũ không còn hay không có khả năng ở vị trí/cương vị
của nó. Như vậy, về cơ bản, thay có
liên quan chủ yếu đến vị trí/cương vị và sự loại
trừ.
Trong
khi đó, đổi là chuyển qua một cái gì
đó khác. Trong cuộc sống, khi đổi thường
người ta mong muốn nhận một cái gì đó mới hơn, tốt hơn hoặc đáng hài lòng hơn.
Tuy nhiên, đây không phải là ngữ nghĩa của vị từ đổi. Khi thay áo, người
ta mặc áo sạch, bỏ áo dơ; còn khi đổi
áo, người ta mặc/lấy một cái áo khác vì rất nhiều lý do khác nhau, và không chắc
là “cái áo khác” này đã đẹp hơn, sạch hơn cái áo trước đó. Tương tự, đổi tên, đổi xe, đổi địa chỉ, đổi số điện
thoại, đổi phòng, đổi chủ, v.v., cũng vậy.
THẾ
Thế là vị từ hành động với ý nghĩa đặt để
một vật/người mới vào vị trí của một vật/người nào đó. Đối tượng của hành động thế là một vật hay một người chứ không
thể là một thuộc tính, trạng thái.
Như vậy, về cơ bản,
nghĩa của thế có vẻ không khác nghĩa
của thay. (“Từ điển tiếng Việt” của
Hoàng Phê định nghĩa thay bằng thế và thế bằng thay). Nhưng hai
từ này không phải là một.
Nếu thay là hành động đặt để một vật/người mới
vào vị trí của một vật/người không còn thích hợp (vật/người mới thích hợp hơn,
vì một lý do nào đó) thì thế là hành
động đặt để một vật/người không được xem là thích hợp lắm (thấp hơn trên thang
giá trị đang đề cập) vào vị trí của một vật/người khác vì lý do nào đó.
Có thể diễn giải
đơn giản như sau:
Thông thường, một
vật A (một bộ phận, linh kiện, chi tiết) bị hỏng cần được thay bằng một vật khác (một
bộ phận, linh kiện, chi tiết khác) có giá trị tương ứng (ở trạng thái hoàn chỉnh
nhất của vật A). Nhưng nếu cái vật khác đó không có thì người ta sẽ thế
bằng một vật B vốn không có tính năng đáng mong muốn. (Tất nhiên, trong trường
hợp không quan tâm đến giá trị của vật thì vẫn có thể dùng thay).
Một người đang đi
đường, xe bị hỏng, phải ghé vào tiệm để sửa. Nếu anh ta quên mang theo tiền thì
có lẽ anh ta phải xin thế một thứ giấy
tờ tùy thân nào đó.
Có một số kết hợp
tương đối chặt: thế chỗ, thế thân, thế mạng,
thế chân, thế chấp (thực chất ở trường hợp hỏng xe vừa nói là một kiểu thế chấp), v.v..
Hầu hết các ví dụ
trên đây trong phần nói về thay không
thể hoặc rất khó đổi thành thế.
Thêm một số ví dụ:
(57) Cái chốt đồng hồ bị gãy,
không tìm được cái chốt mới để thay
nên anh thế bằng một đoạn dây thép nhỏ.
(58) Cậu ngồi thế chỗ tớ đi, không ai biết đâu. Tớ chạy
ra ngoài một tí.
(59) Sau khi có danh sách duyệt,
nhân viên làm hồ sơ tìm cách thế tên
của một số đối tượng không đủ tiêu chuẩn vào. Dĩ nhiên, người trúng tuyển thật
sự sẽ mất cơ hội.
(60) Nếu anh trốn đi thì con
anh sẽ thế mạng đấy!
(61) Ông ta chỉ xem anh như
hình nhân thế mạng thôi.
THAY ĐỔI
Thay đổi
là một ngữ vị từ biểu thị hành động (làm cho khác với trước), hay quá trình (trở
nên khác với trước), hay trạng thái (khác với trước).
(62) Anh đã quyết định. Anh sẽ thay
đổi mình/lối sống/con người mình/diện
mạo vùng đất này/cách quản lý.
(63) Anh nghĩ anh có thể thay đổi
được tình hình à?
(64) Anh mang theo vài bộ quần
áo để thay đổi.
(65) Thị trường đang thay đổi
theo hướng có lợi cho ta.
(66) Không khí cuộc họp thay đổi
hẳn khi ông ta vừa dứt lời.
(67) Thành phố này thay đổi
nhanh quá!
(68) Em không giống như em ngày
trước nữa. Em đã thay đổi rồi!
Về ngữ pháp và ngữ
nghĩa, thay đổi khác với thay và đổi, dù có chia sẻ nghĩa từ vựng với hai
từ này.
Sau thay đổi
là tham tố phạm vi thể chứ không phải là chuyển thể hay bị chuyển thể. Lý do là
không thể thay danh ngữ biểu thị cái mới hay danh ngữ biểu thị cái cũ vào vị
trí này.
So sánh các câu
sau:
(69) Thành phố này nên thay đổi chính sách đầu tư. (Chúng ta
nên chuyển chính sách đầu tư từ ưu tiên công nghiệp sang ưu tiên các lĩnh vực dịch
vụ và khoa học kỹ thuật).
(70) Thành phố này nên thay đổi chính sách ưu tiên công nghiệp.
(71) Thành phố này nên thay đổi chính sách ưu tiên các lĩnh vực
dịch vụ và khoa học kỹ thuật.
Ở ba câu trên,
“chính sách ưu tiên công nghiệp” là cái cũ, “chính sách ưu tiên các lĩnh vực dịch
vụ và khoa học kỹ thuật” là cái mới. Hai câu sau (70-71) vẫn có thể xem là chỉn
chu, nhưng nó không biểu hiện được cái nội dung của câu (69). Hay đúng hơn, hai
danh ngữ này, đến lượt nó, lại trở thành phạm vi thể.
Khác với thay và đổi, tham tố sau thay đổi có thể được dẫn nhập bằng giới từ về.
(72) Đời xe này chỉ thay đổi
về mẫu mã chứ động cơ chẳng có gì khác trước.
(73) Trận này, Barca sẽ thay đổi
về chiến thuật.
Nghĩa của thay đổi
là “khác với trước” như đã nói trên nên, khi diễn đạt quá trình hay trạng thái,
thay đổi có thể không cần sự có mặt của bổ ngữ. Cái trải qua sự thay đổi
hay kết quả của sự thay đổi chính là đương thể (yếu tố giữ vai
trò đề/chủ ngữ trong câu).
So sánh:
(74) a. Cô
ấy đã thay đổi tính cách.
b.
Cô ấy thay đổi nhiều quá!
(75) a. Thành
phố này đã thay đổi về kinh tế, xã hội và văn hóa.
b.
Thành phố này đã thay đổi hoàn toàn.
Sau thay đổi
thường phải là một ngữ đoạn hai hoặc hơn hai âm tiết, bất kể là đẳng kết hay phụ
kết.
(76) Con người không dễ thay đổi
tính cách/bản tính.
(77) Chị phải thay đổi
mối quan hệ này. Nó đã làm chị quá mệt mỏi.
(78) Anh tìm cách thay đổi
kiểu áo dài. Nếu không, nó sẽ trở nên nhàm chán.
(79) ??Chị không muốn thay đổi
áo/váy/ví/phòng/bút/ý/tính.
Trong thực tế, có
nhiều trường hợp có thể sử dụng đổi
hay thay đổi mà không có sự khác biệt
nào về nội dung biểu hiện. Chẳng hạn:
(80) Để bảo đảm kết quả thi cuối
năm, chúng ta cần đổi/thay đổi
phương pháp học tập.
(81) Trong 45 phút đầu, các cầu
thủ đã đổi/thay đổi vị trí cho nhau
rất linh hoạt.
(82) Chúng tôi quyết định đổi/thay
đổi mẫu mã để tăng sức cạnh tranh.
(83) Mười năm rồi chị ấy vẫn
không đổi/thay đổi kiểu tóc.
Tuy nhiên, trong
chiều sâu ngữ nghĩa, vẫn có sự phân biệt. Nói chung, “đổi X” tiền giả định có hai thực thể: bỏ X này để lấy X khác, dù
trên bề mặt chỉ có X – cái phạm vi mà hai thực thể đó thuộc vào (ví dụ “Cô ấy đổi kiểu tóc”, tức là bỏ “kiểu tóc thẳng”
lấy “kiểu tóc xoăn”).
Trong khi đó, “thay đổi X” tiền giả định chỉ có một thực
thể X, cái thực thể này chuyển khác đi theo thời gian, không gian (ví dụ như
“Cô ấy đã thay đổi”, “Thời tiết sắp thay đổi”); hoặc một phạm vi X, trong đó
diễn ra sự chuyển biến (cũng theo thời gian, không gian) mà không cần quan tâm
đến những gì thuộc về nó (ví dụ “Cô ấy thay
đổi chỗ ở”: có sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác, và có thể là rất nhiều
nơi, nhưng thông báo muốn truyền đạt là
“cô ấy thực hiện hành động gì đó liên quan đến chỗ ở”).
THAY THẾ
Thay thế
là ngữ vị từ biểu thị hành động hay quá trình đặt để một vật/người vào vị
trí/cương vị của một vật/người khác.
Về cả ngữ nghĩa và
ngữ pháp, thay thế rất gần với thay.
Hầu như thay thế
không có yêu cầu ngữ pháp gì khác với thay,
trừ khả năng làm đồng vị ngữ với một vị từ khác.
Nói chung thay thế
không thể đứng ngay sau một vị từ khác như thay.
Ví dụ:
(84) Ai sẽ ký thay/??thay thế giám đốc?
(85) Tôi sẽ làm thay/??thay thế anh việc này.
Nếu đứng sau gián
cách hoặc đứng trước vị từ thì khả năng của thay
thế tương tự thay.
(86) Ai sẽ ký văn bản này thay/thay
thế giám đốc?
(87) Tôi sẽ làm việc này thay/thay
thế anh.
(88) Ai sẽ thay/thay thế giám đốc ký văn bản này?
(89) Tôi sẽ thay/thay
thế anh làm việc này.
No comments:
Post a Comment