I.
Nhận
xét về ngữ pháp và ngữ nghĩa của ÍT / NHIỀU
Từ
điển Hoàng Phê giải nghĩa: ít: “có số
lượng nhỏ, hoặc ở mức thấp”, nhiều:
“có số lượng lớn, hoặc ở mức cao, trái với ít”.
Quả
thật, trong ý niệm của mọi người Việt, ít
và nhiều là hai từ đối nghĩa. Tuy nhiên,
thái độ cú pháp của hai từ chỉ giống nhau ở 2 trường hợp đầu, gần nhau ở trường hợp thứ tư và khác xa nhau ở
trường hợp thứ ba.
1. Trường
hợp 1
(1) Thư
viện này ít/nhiều sách (/người/bàn ghế/nhân
viên) quá.
(2) Thư
viện này sách (/người/bàn ghế/nhân viên) ít/nhiều quá.
(3) Tờ báo
này rất (hơi/quá) ít/nhiều hình ảnh.
(4) Tờ báo
này hình ảnh rất (/hơi/quá) ít/nhiều.
Trong
các ví dụ trên, ít/nhiều đóng vai trò
trung tâm của thuyết/vị ngữ, liên kết với đối tượng (diễn đạt bằng một danh từ)
ở cả hai vị trí trước và sau (ít/nhiều
+ N, và N + ít/nhiều).
2. Trường
hợp 2
(5) Thư
viện này có ít/nhiều sách quá.
(6) Tờ báo
này có rất (/hơi/quá) ít/nhiều hình ảnh.
(7) Anh
mất rất ít/nhiều tiền cho căn nhà này.
(8) Vụ vừa
rồi ông kiếm được rất ít/nhiều tiền.
Ở
các ví dụ trên, ít/nhiều cũng liên kết trực tiếp với đối tượng
(là một danh từ), nhưng nó lại là bổ ngữ cho một vị từ khác đứng trước. Nếu không có yếu tố đánh dấu (chẳng hạn những
từ chỉ mức độ như ở trên) thì ít được
hiểu là “một ít” chứ không nằm trong
thế đối lập với nhiều như ở các ví dụ
trường hợp 1.
(9) Chị cố làm thêm giờ để kiếm ít tiền cho cái
tết này.
(10) May mắn là cận tết chị cũng kiếm được ít quần áo mới cho các con.
Ở
hai ví dụ vừa nêu có sự bất cân xứng: câu (9) khó thay ít bằng nhiều, câu (10) có thể thay ít
bằng nhiều, nhưng ở cả hai câu ít không thể kết hợp với từ chỉ mức độ
(vd rất).
3. Trường
hợp 3
(11) a. Nó đã lớn nên ít/*nhiều cần mẹ
giúp.
b.
Nhà đông người nên tôi ít/*nhiều phải nấu cơm.
c.
Người mệt mỏi nên tôi ít/*nhiều muốn đi ra ngoài.
(12) a. Mấy hôm nay thằng bé có vẻ ít/*nhiều
nói.
b. Càng lớn tuổi tôi
càng ít/*nhiều đi.
c. Em ít/*nhiều
đọc quá thì làm sao giỏi được?
d. Trong khi dạy, tôi rất
ít/*nhiều ngồi.
e. Suốt ngày chạy ngoài
đồng, thằng bé ít mặc áo.
f. Nó ít ngồi trên ghế.
(13) a. Dạo này vui nên thằng bé ít/*nhiều nhớ mẹ.
b. Nó ít/*nhiều
nghĩ đến chuyện cũ.
c. Thằng bé sống với dì nó nên bà ít/*nhiều
lo lắng.
d. Sống ở đây, thằng bé
ít/*nhiều cảm thấy cô đơn.
e. Nó có vẻ ít/*nhiều
biết về lịch sử, đúng không?
f. Tôi ít/*nhiều
thấy nó làm việc nhà.
(14) a. Rửa bằng oxy già ít/*nhiều xót.
b. Từ khi tập thể dục,
làm việc tôi ít/*nhiều mệt hơn trước.
c. Nó luôn chọn cái gì ít/*nhiều
mệt để làm.
d. Ban đêm ít/*nhiều
nóng hơn.
e. Năm nay có vẻ ít/*nhiều
lạnh.
f. Bưởi mùa này ít/*nhiều
chua.
g. Trà Bảo Lộc ít/*nhiều
đắng nên dễ uống.
(15) a. Gió ít/*nhiều thổi hướng này.
b. Tháng này lá ít/*nhiều
rụng.
c. Mới tập đi nhưng nó ít/*nhiều
ngã lắm.
d. Mưa ít/*nhiều
tạt vào nhà, không cần đóng cửa đâu!
e. Nhà vùng này ít/*nhiều
treo tranh chân dung.
Nhận
xét:
(i)
Từ những ví dụ trên có thể thấy sự đối xứng về
nghĩa và ngữ pháp giữa ít và nhiều chỉ thể hiện ở trường hợp 1 và 2,
tức là khi nó kết hợp với danh từ để tạo thành một ngữ đoạn lượng tính. Tuy nhiên,
sự đối xứng này không phải là sự đối xứng hoàn toàn: ít không thể thay bằng nhiều
khi nó xuất hiện trước danh từ với nghĩa là “một ít”, “chút ít” (ví dụ
(9) và (10)).
(ii)
Trong khi đó, biểu hiện bất cân xứng giữa ít và nhiều rất rõ rệt ở trường hợp thứ 3: nhiều tuyệt nhiên không thể xuất hiện trước vị từ; trong khi đó ít tỏ ra rất “năng động”, nó có thể đi
trước nhiều tiểu loại vị từ khác nhau: vị từ hành động, quá trình, trạng thái và
tư thế; nghĩa là [±động] và [±chủ ý], và cả một số vị từ tình thái (vd (11)).
(iii)
Khi đi trước vị từ hành động, ít mang đến cho cả phần thuyết ý nghĩa
trạng thái. Lý do: vị từ trung tâm của thuyết là ít chứ không còn là vị từ theo sau; do đó, ngay trước ít và sau ít (sau vị từ thứ hai hoặc sau bổ ngữ của vị từ này) hoàn toàn có
thể thêm từ chỉ mức độ (rất, hơi, quá).
(iv)
Khoảng trống ngữ nghĩa và ngữ pháp mà sự bất cân
xứng giữa ít và nhiều tạo ra có thể được lấp đầy bằng hay – một yếu tố cũng có
tính thang độ. Trong hầu hết các ví dụ ở trường hợp 3, hay có thể thay thế cho ít
ở thế đối nghĩa tương ứng. Như vậy, ít
trong trường hợp này không khác “ít khi”-
một ngữ đoạn biểu thị tần suất của sự tình. Tuy nhiên, [ít + V] không phải bao giờ cũng có thể thay thế bằng [ít khi + V] – khi đầu câu là một ngữ đoạn
biểu thị một khúc đoạn thời gian nhất định. Chẳng hạn, so sánh các câu (a) với (b)
sau đây:
(16) a. Hôm nay sao chị ít nói vậy?
b. ??Hôm
nay sao chị ít khi nói vậy?
(17) a. Dạo này thằng bé ít ăn quá!
b. ??Dạo này
thằng bé ít khi ăn quá!
(v)
Nói chung, khi một sự tình có thể tri nhận về tần
suất thì trước hết nó phải được phân đoạn trên trục thời gian, tức là nó có thể
được phân xuất thành lần, thao tác, động tác. Hay nói cách khác, sự tình được
thể hiện trong câu có thể được phân lập như một “đơn vị” (+) bên cạnh những “đơn
vị” (-) trong thời gian tuyệt đối hoặc tương đối (so sánh với những trường hợp
khác có liên quan). Nói “Nó ít đi mua sắm” tức là nhận định rằng “nó đi mua sắm”
(+) một vài lần trong chuỗi xen kẽ “không đi mua sắm” (-). Tất nhiên, khi phân
xuất như vậy thì sự tình được miêu tả không phải là sự tình được biểu thị bằng vị từ đi sau mà là sự tình được biểu thị bằng ít. Tức là ta có một sự tình quan hệ hoặc tồn tại.
(vi)
Điều vừa nói trên dẫn đến một hệ quả là những sự
tình không thể phân đoạn được thì sẽ không thể mang tính tần suất – nghĩa là ít không phải là ít khi, không đối nghĩa với hay.
Vd:
(18) a.
Nó có vẻ ít biết về lịch sử.
b. Mẹ
nó bỏ rơi nó từ nhỏ nên nó ít thương
mẹ nó.
Thông thường, người ta
chỉ có thể “biết” hay “không biết” chứ không thể khi biết khi không, do vậy “ít
biết” ở đây có nghĩa là “biết ở mức độ thấp” chứ không thể hiểu “ít khi biết”.
Tương tự, về tình cảm, “con ít thương mẹ” được hiểu là “con thương mẹ ở mức độ thấp” chứ khó có thể
hiểu khi thương khi không – tất nhiên, khi hiểu “thương” nghĩa là làm hành động
gì đó để biểu hiện tình thương thì là chuyện khác.
Trường hợp đang nói hoàn toàn khác với “Nó ít
nghe mẹ”, “Nó ít nhớ mẹ”.
(vii)
Một hệ quả khác: Khi diễn đạt một thuộc tính hay
trạng thái thường tồn (hay được xem là thường tồn) của một sự vật cụ thể, xác định,
khó có thể sử dụng các yếu tố tần suất. So sánh các câu (a) với (b) sau đây:
(19) a. Cái cặp này *ít/*hay làm bằng da.
b. Loại cặp dành cho học sinh tiểu học ít/hay làm bằng da.
(20) a. Hội sở của Ngân hàng Á châu *ít/*hay
nằm ở Quận 1.
b. Hội sở của các ngân hàng ít/hay nằm ở các quận xa
trung tâm.
Bàn
thêm về trường hợp 3
– Ở trường hợp 3, ít có quan hệ trực tiếp với vị từ đi
sau, nhưng ngữ nghĩa của nó cũng chịu sự ràng buộc chặt chẽ của các danh ngữ có
liên quan. Nghĩa là, ngữ nghĩa của ít
sẽ thay đổi tùy vào bản chất ngữ pháp và ngữ nghĩa của danh ngữ làm tham tố. Lấy
ví dụ:
(21) a. Chiếc xe này ít hư lắm.
b. Xe này ít hư lắm.
Câu
trên nhận định về một chiếc xe cụ thể, do đó ít biểu thị nghĩa tần suất ở dạng đơn giản nhất: thỉnh thoảng nó mới
hư một lần. Còn câu dưới nhận định về một loại (“xe này”), cho nên có thể giải
nghĩa của ít: thỉnh thoảng mới có một/vài
chiếc bị hư, chứ không phải là “(rất) ít chiếc xe loại này bị hư”.
Với cách hiểu như trên, câu “Cái ly
này ít vỡ lắm, mua đi!” không được chấp nhận, khác hẳn với “(Loại) ly này ít vỡ
lắm, mua đi!”.
Tương tự:
(22) a. Nó ít
nói về chuyện đó.
b. Người ta ít nói về chuyện đó.
Câu
trên cho biết tần suất của hành động nói của “nó” (ít khi); trong khi câu dưới được hiểu: “thỉnh thoảng mới có người
nói về chuyện đó”.
Như vậy, trong chừng mực nào đó liệu
có thể khái quát rằng nghĩa tần suất của ít
được nhận thức trên cả trục thời gian lẫn trên tỉ lệ các thực thể được nói đến?
– Có những trường hợp có thể xem là ít mơ hồ, bởi vì khó có thể cả quyết
nghĩa của nó là gì.
Chẳng
hạn, khi được bác sĩ hỏi, một bệnh nhân trả lời:
(23) Tay trái ít
đau hơn tay phải.
Bác
sĩ có thể hiểu là tay trái “ít khi đau” nhưng cũng có thể hiểu là “đau ít” hơn
tay phải. Tuy nhiên, có lẽ cách hiểu thứ nhất là sự chọn lựa ưu tiên, vì nó hợp
hệ thống hơn, và vì cách hiểu thứ hai có nhiều cách diễn đạt khác để chọn lựa
(“đau ít hơn”, “không đau bằng”, v.v.).
Tương tự:
(24) a. Khúc sông này ít lở (đất) hơn khúc đằng kia.
b.
Bưởi mùa này ít chua.
–
Xét một tình huống phức tạp hơn:
Hai người bạn đang đi qua một đoạn
đường rất xấu. Một người nói:
(25)
Xe này ít
lắc thật.
Có
hai sự mơ hồ: (a) thật sự con đường xấu làm xe lắc chứ chiếc xe không có thuộc
tính lắc; (b) ngữ đoạn “xe này” biểu thị tính loại nhưng cũng có thể hiểu là
“chiếc xe này” vì “loại xe này” thường không lắc.
Như
vậy, câu trên có lẽ nên được hiểu: khi đi qua những đoạn đường xấu, loại xe này
lắc ít hơn người ta nghĩ (không phải là “ít khi lắc”). Cách hiểu này có thể được
xác nhận nếu thử dùng dạng đối nghĩa của nó:
(26)
a. Xe này ít
lắc thật.
b. *Xe này lắc nhiều thật.
c. *Xe này hay lắc thật.
Rõ
ràng hai câu trên đều không ổn. May ra có thể nói:
(27) Xe này lắc dữ/ghê quá!
Trong
đó dữ/ghê là từ biểu thị sự đánh giá chủ quan của người nói, không gắn trực
tiếp vào thuộc tính “lắc” của xe nên khả chấp (có thể hiểu: “... tôi thấy dữ/ghê
quá”).
4. Trường
hợp 4
(28) a. *Nó đã lớn nên cần ít/nhiều mẹ giúp.
b.
*Nhà đông người nên tôi phải ít/nhiều nấu cơm.
c.
*Người mệt mỏi nên tôi muốn ít/nhiều đi ra ngoài.
d. Dạo này nó đã ít/*nhiều
đi chơi.
e.
Dạo này nó vẫn ít/*nhiều đọc sách.
(29)a. Trong cuộc họp, anh ấy nói ít/nhiều nhưng rất hay.
b. Dạo này chị ấy mua sắm
ít/nhiều nhỉ?
c. Em đọc ít hay đọc nhiều là tùy em.
d. Trong khi dạy, tôi ngồi
ít/nhiều hơn đứng.
e. *Suốt ngày chạy
ngoài đồng, thằng bé đội ít/nhiều mũ.
f. *Mưa mà nó đem ít/nhiều
áo mưa.
g. ?Anh nhìn cô ấy ít/nhiều
thì sẽ thấy cô ấy đẹp.
(30) a. Dạo này thằng bé nhớ mẹ ít/nhiều.
b. Nó nghĩ đến chuyện đó
ít/nhiều hơn.
c. Thằng bé sống với dì nó nên bà lo lắng ít/nhiều hơn.
d. Sống ở đây, thằng bé
cảm thấy ít/*nhiều cô đơn.
e. Tôi thấy ít/nhiều
người/*cô ấy.
f. Nó có vẻ biết ít/nhiều
về lịch sử.
(31)a. ??Rửa bằng oxy già xót ít/nhiều.
b. ??Hôm nay tôi mệt ít/nhiều.
c. ??Nó luôn chọn cái gì
mệt ít/nhiều để làm.
d. ??Ban đêm nóng ít/nhiều.
e. ??Năm nay có vẻ lạnh
ít/nhiều.
f. ??Bưởi mùa này chua ít/nhiều.
g. *Trà Bảo Lộc đắng ít/nhiều.
h. *Gần đây cô ấy mập ít/nhiều.
(32)
a. ??Tháng này gió thổi ít/nhiều.
b. Tháng này lá rụng ít/nhiều.
c. ??Mới tập đi nhưng nó
ngã ít/nhiều lắm.
d. ??Mưa tạt ít/nhiều
vào nhà, không cần đóng cửa đâu!
e. Nhà vùng này treo ít/nhiều
tranh chân dung.
f. *Cái cửa này đóng ít/nhiều.
Nhận xét:
(i)
So với trường hợp 3, ở trường hợp 4 tình hình có
vẻ kém thuần nhất hơn rất nhiều, khó có thể xác định ngữ nghĩa và hoạt động của
ít/nhiều. Lý do: vị từ trung tâm trong thuyết là một vị từ nào đó chứ
không phải là ít/nhiều. Chính vị từ này sẽ chi phối các tham tố trong cấu trúc vị ngữ,
và do đó sẽ chi phối ít/nhiều.
(ii)
Khả năng hoạt động của nhiều ở vị trí sau vị từ lớn hơn rất nhiều so với trường hợp 3, có
thể nói nó tỏ ra tương đương với ít.
(Nhiều không cân xứng với ít vì không phải bao giờ nhiều cũng xuất hiện ở vị trí của ít và ngược lại. Chẳng hạn: so sánh nghĩ nhiều/?nghĩ ít, lo lắng nhiều/?lo lắng ít)
(iii)
Có thể nói, những vị từ có ít/nhiều theo sau thì nghĩa
của nó phải hàm chứa khả năng lượng hóa theo thang độ ít-nhiều; nếu không ta sẽ
có một cấu trúc kém tự nhiên. Chẳng hạn: “ngã ?ít/?nhiều”, “chua ?ít/?nhiều”,
“đội ?ít/?nhiều”, v.v..
(iv)
Như vừa nói ở (i), nghĩa của các vị từ tình thái
(vd (28)) hay vị từ hành động cùng với các tham tố của nó sẽ dung nạp hay không
dung nạp ít/nhiều. Chẳng hạn, “đem ít/nhiều sách/tiền” thì được, nhưng “đem ít/nhiều
áo mưa” thì không; “trong cuộc họp, anh ấy nói ít/nhiều quá”, “anh ấy nói
nhiều với tôi” thì được, nhưng “anh ấy
nói ít với tôi” thì không.
(v)
Trong cấu trúc [ít + V] (như ít đi, ít mua sắm, ít nhớ) ít tác động đến vị
từ theo sau, do đó thường có nghĩa tần suất; trong khi đó, ở [V + ít] (như đi ít, mua sắm ít, nhớ ít) ít mang nghĩa
mức độ thấp, số lượng thấp liên quan đến đối tượng theo sau nó (đối tượng này có
thể xuất hiện như là một tham tố hoặc không). Chẳng hạn, “ít mua sắm” nghĩa là
“ít khi (đi) mua sắm”, còn “mua sắm ít” nghĩa là “chỉ mua sắm một vài món”; “ít
nhớ” nghĩa là “ít khi, thỉnh thoảng nhớ”, còn “nhớ ít” nghĩa là “không nhớ da
diết”. Dù sao thì sự khác biệt về ngữ nghĩa như vừa nói không thể khái quát cho
mọi vị từ đứng trước ít.
(vi)
Các vị từ biểu thị trạng thái, quá trình (vd
(30)-(32)) có vẻ khó tri nhận theo thang độ ít-nhiều, vì bản thân nó có thể được
đánh dấu mức độ (rất/hơi/quá/lắm, v.v.) mà không cần đến ít/nhiều.
Nhưng trong nhiều trường hợp chỉ cần thêm vào phần thuyết một ngữ đoạn so sánh “hơn...” thì khả năng được chấp nhận cao hơn. Chẳng hạn: “Rửa bằng oxy già
xót ít/nhiều hơn rửa bằng cồn” (vs. (31a), “Hôm nay tôi mệt ít/nhiều
hơn hôm qua” (vs. (31b); “nó ngã ít/nhiều hơn thằng bé kia” (vs. (32c)).
(vii)
Về ngữ pháp và ngữ nghĩa, cần phân biệt quan hệ
giữa các thành phần trong cấu trúc (a) [V + (ít/nhiều + NP)Obj]
và (b) [V + ít/nhiềuadv + NPObj] và (c) [V + ít/nhiều + Ø]. Chẳng hạn:
– ở
(a) ta có “mua ít thịt, nhiều cá”, “đi ít/nhiều nơi”;
– ở
(b) ít/nhiều là một phó từ (trạng từ, phụ từ - adverb) của vị từ đứng trước,
nó có thể đứng ngay sau vị từ hoặc gián cách vị từ bởi một danh ngữ đối tượng;
Vd: “nhớ mẹ ít/nhiều”, “lo lắng về chuyện tiền bạc ít/nhiều hơn” (vs. “lo lắng
(là) ít/nhiều tiền quá”);
– ở
(c) danh ngữ sau ít/nhiều là zéro, khi đó nghĩa của nó mơ hồ;
Vd: “nói ít” là không nói dài, chỉ vài lời, “nói nhiều” có thể có nghĩa ngược lại,
nhưng cũng có thể có nghĩa thuộc tính (“một người nói nhiều” - đối nghĩa với “hay
nói”); “đi ít” có thể hiểu là thỉnh thoảng mới đi, đi đoạn đường ngắn, đi vài bước
(vì bị đau), “đi nhiều” thì ngược lại.
Như
vậy, qua những điểm nhận xét trên có thể nói, với ít/nhiều đi sau V khó lòng
khái quát quan hệ ngữ pháp và ngữ nghĩa của nó.
No comments:
Post a Comment