Trong cấu trúc “V
+ cho rồi!”, cho là giới từ, rồi thường được hiểu là yếu tố biểu thị mục đích của
hành động (= V).
Ví dụ:
(1) Việc này đã kéo dài 2 tuần.
Chán quá! Tôi muốn làm cho rồi.
(2) Em phải làm cho rồi bài tập
này trước khi đi chơi.
“V + cho rồi” có nghĩa là cố gắng để kết thúc
hành động V, cũng có nghĩa là hoàn tất cái/việc gì đó. Việc kết thúc được xem
là mục đích của chính hành động V. Vì vậy những phát ngôn như trên mang một hàm
ý là chủ thể không cần quan tâm đến kết quả hay ý nghĩa của hành động.
Nói chung, hiểu
như vậy không có gì sai. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cách hiểu đó thường chịu sự
ràng buộc của ngữ cảnh (câu (1)) và/hoặc các yếu tố khác trong câu (câu (2)).
Chúng tôi cho rằng
có một cách hiểu khác: trong rất nhiều tình huống, “V + cho rồi” thường biểu thị ý người nói rằng cần/nên thực hiện hành động
V để kết thúc tất cả những phiền phức, những mối bận tâm liên quan đến hành động
đó.
Cách hiểu này có lẽ
bao quát được nhiều trường hợp hơn cách hiểu trên kia.
Ví dụ:
(3) (Phòng họp bị cúp điện đã nửa
tiếng, rất nóng. Một người đề nghị)
–
Thôi, chúng ta về cho rồi!
(4) (Một người rủ bạn đi xem
phim. Nhưng trời mưa rất to. Người bạn nói:)
–
Mưa to thế này, ở nhà cho rồi!
(5) (Thằng bé xin đi chơi. Bố mẹ
không cho. Nó năn nỉ mãi. Cuối cùng ông bố nói:)
–
Cho nó đi cho rồi!
Rõ ràng, ở (3)
không thể hiểu là người nói muốn kết thúc hành động “về”; ở (4) không thể hiểu
là muốn kết thúc hành động (?) “ở nhà”; ở (5) không thể hiểu là muốn kết thúc
hành động “cho (phép)”.
Khi nói những câu
trên người nói cho rằng cần thực hiện hành động “về”, “ở nhà”, “cho phép” để kết
thúc/chấm dứt những hệ lụy liên quan đến việc “không về”, “không ở nhà”, “không
cho phép”.
Xét thêm hai ví dụ
sau:
(6) (Hai cô gái đi nhiều nơi
nhưng không tìm được cái áo ưng ý. Đến một cửa hàng, thấy một cái áo “được được”,
một cô nói:)
–
Cái này trông cũng được, mua cho rồi!
(7) (Cả nhà đang chờ cơm ông bố,
nhưng đã quá ngọ vẫn không thấy. Bà mẹ nói:)
–
Thôi, ăn cho rồi!
Hai câu trên có thể
hiểu theo cách thứ nhất: người nói muốn kết thúc hành động “mua”, “ăn”. Nhưng,
quả thật, nếu hiểu theo cách thứ hai có lẽ hợp với cảm thức của người Việt hơn:
người nói muốn “mua”, “ăn” để thoát khỏi sự khó chịu khi phải đi lùng kiếm hay
chờ đợi.
Nói thêm:
Trong những kết hợp
tương tự, thay cho rồi là một vị từ
khác (xong, hoàn chỉnh, hay, tốt, đẹp, rẻ,
ngon, v.v.), chúng ta chỉ có một cách hiểu duy nhất: vị từ sau cho chính là mục đích mà hành động V phải
đạt đến, và không có hàm ý nào kèm theo cả. (Nghĩa là không liên quan gì đến
chuyện kết thúc/chấm dứt hành động, cũng không dình dáng gì đến chuyện hệ lụy vừa
nói.)
(8) Anh cứ đi đi, tôi không đi được
đâu. Còn mấy việc tôi phải làm cho xong.
(9) Đến phiên em hát rồi đấy.
Hát cho hay nhé!
(10) Chị đi chợ Bà Chiểu mua
cho rẻ.
(11) Bố mẹ kỳ vọng như vậy nên em
phải học cho giỏi.
(12) Ăn đi, ăn ngay cho nóng!
Ở các câu trên, người nói muốn chủ thể phải hành động sao
cho đạt được mục đích “xong” (8), “hay” (9), “rẻ” (10), “giỏi” (11), và “nóng”
(12).
No comments:
Post a Comment