Friday, 17 August 2012

... CÒN GÌ!


     Ngữ đoạn tình thái cuối câu “... còn gì!” có hai trường hợp khác nhau cả về ngữ nghĩa lẫn ngữ pháp, là cách diễn đạt khẩu ngữ mà có lẽ người Việt nào cũng nói đúng và hiểu đúng.


... RỒI CÒN GÌ!

     Một phát ngôn có chứa “... (đã)... rồi còn gì (nữa)!” là lời đáp cho một phát ngôn cầu/khiến (hoặc hàm ý cầu/khiến) đi trước nó.
     Cũng giống như nhiều hiện tượng tương tự của tiếng Việt, cách nói này có lẽ xuất phát từ một cấu trúc chất vấn [“... (đã)... rồi, (anh) còn (muốn) gì (nữa)?”] nhằm bác bỏ hoặc khước từ một yêu sách của người đối thoại; sau đó nó được rút gọn thành một ngữ đoạn tình thái cuối câu với sắc thái âm tính khá rõ.
     Nó cho biết ý người nói: [hành động/trạng thái vừa nói đã đủ] + [đừng đòi hỏi thêm gì cả]


(1) – Em rửa chén đi!
 – Em nấu cơm rồi còn gì!
(2) – Con đói bụng quá!
 – Lúc nãy con ăn một ổ bánh mì rồi còn gì!
(3) – Em muốn may một cái áo dài...
 – Em đã có hai cái rồi còn gì!
(4) – Thằng Tèo giận cậu đấy!
 – Tớ đã xin lỗi nó rồi còn gì!

     Cần chú ý:
(i)                 lời của người đối thoại phải là hoặc được hiểu là một lời cầu/khiến (đề nghị, yêu cầu, xin phép, ...);
(ii)               nội dung của lời đáp có chứa “... rồi còn gì!” không thể lặp lại nội dung của lời cầu/khiến (vì “... rồi còn gì!” không phải là “... rồi.”) mà nó phải nêu ra một trường hợp khác (trường hợp này chính là lý do để khước từ, bác bỏ điều mà người đối thoại muốn).

Chẳng hạn:
(5) Con: – Sinh nhật con, bố mua iPhone cho con nhé!
 Bố:   – *Bố mua (iPhone) cho con rồi còn gì!
          – Bố mua iPad cho con rồi còn gì!
          – Con có cái Nokia rồi còn gì!

 
... CÒN GÌ!
    
     “... còn gì!” cũng là một ngữ đoạn tình thái cuối câu rất quen thuộc với người Việt.
     Phát ngôn có chứa “... còn gì!” cho biết hành động/trạng thái được nêu ra trước đó chắc chắn sẽ dẫn đến kết quả là không còn gì. Từ đó, nó được dùng để đưa ra một cảnh báo nhằm ngăn trở hành động/trạng thái vừa nêu.
     Cũng giống nhiều hiện tượng khác, cái ý phủ định không còn gì là hàm ý rút ra từ một lời chất vấn: “..., còn gì?
     Phát ngôn có chứa “... còn gì!” không cần bất cứ một phát ngôn nào đi trước nó.
(6) (Thấy đứa em cầm ly nước chạy, đứa chị bảo:)
          Em chạy, nước đổ hết còn gì!
(7) (Thấy đứa em cột dây vào cổ con mèo, đứa chị bảo:)
          Em làm vậy nó chết còn gì!
(8) (Thấy đứa em nấu cơm mà để lửa rất to, đứa chị bảo:)
          Lửa to vậy, cơm cháy còn gì!

     Do những điều vừa nói, ở cách dùng này không thể thêm rồi hay đã... rồi vào trước còn gì.

     Ấy thế mà trong một quyển giáo trình dạy tiếng Việt người ta lại cho [còn gì: kết cấu đặt ở cuối câu, biểu thị ý khẳng định điều vừa nêu là một sự thật không thể bác bỏ] với hai ví dụ:
      
                (a)   Chúng ta không gặp nhau năm, sáu năm rồi còn gì.
                (b)   Làm như vậy hỏng hết còn gì.
      
Thực chất đây là hai trường hợp dùng hoàn toàn khác nhau như đã nói trên; và cái định nghĩa vừa dẫn cũng chẳng có liên quan gì đến ngữ nghĩa hoặc cách dùng của còn gì. (Thật ra, trong phần bài tập, tác giả không đưa ra bất kỳ một tình huống nào có thể dùng như kiểu (b) mà chỉ có mấy câu kiểu (a)).
     Ngay câu mẫu ở phần bài tập cũng không chuẩn: 
-          (Anh chưa thăm mẹ vợ à?)
Tối qua tôi đã đến thăm rồi còn gì.
  
   Ở đây tác giả đã lẫn lộn “... rồi còn gì!” với “... rồi!”. Lời đáp trên hoàn toàn sai chuẩn mực nói năng bình thường của người Việt.
     Rồi tác giả đưa ra một số câu dẫn vốn là những câu hỏi tuyển chọn (không mang hàm ý) và yêu cầu học viên dùng “... còn gì” để trả lời (chú ý: không có rồi, cũng chẳng có đã):

           -          Anh cho con tiền ăn sáng chưa?
           -          Trước khi con ngủ, em cho con uống thuốc ho chưa?
           -          Em ủi (là) cho anh cái áo sơ mi trắng chưa?

     Nếu căn cứ theo câu mẫu ở trên, chắc chắn người học sẽ sản sinh những câu như:
           -          *Anh cho nó tiền ăn sáng rồi còn gì!
(Nếu cho rằng câu hỏi có hàm ý cầu/khiến thì may ra có thể nói: “Nó ăn cơm nguội rồi còn gì!”)                           
             -          *Em cho nó uống thuốc ho rồi còn gì!
                       (*Em cho nó uống (thuốc) rồi còn gì!)
                       (*Nó uống trước khi ngủ rồi còn gì!)

             -          *Em ủi cho anh cái áo sơ mi trắng rồi còn gì!
                       (*Em ủi cho anh cái áo đó rồi còn gì!)

Riêng câu dẫn sau đây:
             -          Bà ngoại bị bệnh. Chị không gọi điện hỏi thăm sao?

Nếu được cho là có hàm ý, có thể có lời đáp:
              -          Chị (/Tao) đã ghé thăm rồi còn gì!
              -          Chị (/Tao) đã mua biếu ngoại mấy hộp sữa rồi còn gì!

     Hai câu này là đúng, vì không theo mẫu!
     Tuy nhiên, khó lòng tìm thấy những câu đáp như vậy ở một đứa cháu ngoại “bình thường”, yêu thương bà. Vì trả lời với nội dung gì thì cũng có nghĩa là “Chị/Tao đã làm tròn bổn phận rồi. Đừng đòi hỏi gì nữa!”.

     E rằng “phong ba bão táp” trong tiếng Việt nổi lên từ những trang sách như thế này!

No comments:

Post a Comment