Nhận ra và nhận thấy là hai ngữ vị từ giao nhau
nhưng không đồng nghĩa.
NHẬN RA
Nhận ra có hai trường hợp dùng:
(i)
biết một
sự vật hay sự tình nhờ đồng nhất sự vật hay sự tình đó với một hình ảnh thuộc về
kinh nghiệm qua một quá trình [tri giác (thấy/nghe/ngửi...) + suy nghĩ và đối
chiếu với kinh nghiệm đã có].
Như
vậy, không nhận ra thì có nghĩa là thấy/nghe, suy nghĩ và đối chiếu nhưng
không tìm được sự đồng nhất với hình ảnh của kinh nghiệm.
(1) Nhìn một lúc nó mới nhận ra cô gái đó là Na.
(2) Vừa nghe nó đã nhận ra ngay đó là giọng của Na.
(3) Đó là anh Tèo, chị không nhận ra à?
(ii)
biết một
sự tình ẩn sau cái bề ngoài khác hẳn của nó, qua một quá trình suy nghĩ, phán
đoán.
(4) Nó nhận ra bố mẹ nó đang có chuyện gì đó giấu nó.
(5) Chị nhận ra chị không thể sống thiếu anh.
(6) Đến bây giờ tôi mới nhận ra con người thật của anh ta là như
vậy.
Chú ý:
Theo sau nhận ra có thể là một danh ngữ. Theo
chúng tôi, đây thật ra là một cách nói tắt.
(7) Tôi đã nhận ra anh Nam. → Tôi đã nhận
ra [ai] là anh Nam // anh Nam là [ai]
(8) Tôi đã nhận ra cây bút này. → Tôi đã nhận
ra cây bút này là [của ai]
(9) Tôi đã nhận ra sự thật. → Tôi đã nhận
ra [cái gì / điều gì] là sự thật.
NHẬN THẤY
Nhận thấy: cho là thấy một sự tình nào đó.
Nói rõ hơn: X là
nhận định chủ quan dựa trên một tri giác nào đó của chủ thể. “A nhận
thấy X” tức là chủ thể A cho là / nghĩ là X (X là một sự tình).
Người ta chỉ có thể
nhận thấy sự tình chứ không thể nhận thấy sự vật. Nghĩa là sau nhận thấy không thể là một danh ngữ.
(10) Nó thấy quả bóng rồi.
(11) *Nó nhận thấy quả bóng rồi.
(12) – Nhà tôi ở sau lùm cây
đó, thấy chưa?
– Thấy rồi, tôi thấy rồi.
(13) – *Nhà tôi ở sau lùm cây
đó, nhận thấy chưa?
– *Nhận thấy rồi, tôi nhận thấy
rồi.
Trong thực tế sử dụng,
đôi khi sau nhận thấy là một cấu trúc
có thuyết tính (nghĩa là một sự tình) – thường là cấu trúc tồn tại – nhưng trên
bề mặt chỉ thể hiện đối tượng được đề cập (nghĩa là một danh ngữ). Đây là hiện
tượng tỉnh lược.
(14) Nó nhận thấy vẻ mệt mỏi trên gương mặt mẹ.
(15) Nó nhận thấy thái độ không hài lòng của cô.
Tuy nhiên, theo
quan điểm của chúng tôi, theo sau hai câu (14) và (15) thường có một nội dung
gì đó nối tiếp; nếu không, thay nhận thấy
bằng thấy có lẽ chuẩn tắc hơn.
(16) Nó nhận thấy vẻ mệt mỏi trên gương mặt mẹ nên không dám nói gì cả.
(17) Nó nhận thấy thái độ không hài lòng của cô khi cô nỏi lảng sang chuyện
khác.
Thường không thể
dùng nhận thấy cho những gì hiển
nhiên, cụ thể trước mắt mọi người; lý do là khi đó những gì mà mọi người tri
giác được (thấy được) về lý thuyết là như nhau. Nhận thấy được dùng trong câu những có yếu tố biểu thị tình thái chủ
quan của người nói. Ví dụ:
(18) *Tôi nhận thấy bọn trẻ đang đá bóng.
(19) Tôi nhận thấy bọn trẻ đá bóng rất bài bản.
(20) *Tôi nhận thấy nhà sách đó nằm trên đường Lê Lợi.
(21) Tôi nhận thấy nhà sách đó nằm ở một vị trí rất thuận lợi.
(22) Tôi nhận thấy nhà sách đó buôn bán không được trung thực.
Chú thích:
- Trong thực tế sử dụng tiếng Việt hiện thời, nhất là ở khẩu ngữ, thấy có vẻ có phạm vi sử dụng rộng hơn, thay cho nhận thấy trong hầu hết trường hợp.
- Nhận thấy khác nhận ra ở ba điểm:
(i)
Khả năng xuất hiện danh ngữ sau nhận thấy hạn chế hơn nhận ra rất nhiều, dù ở cả hai đều là
hình thức tỉnh lược (xem các ví dụ trên).
(ii)
Ở nhận thấy
có quá trình suy nghĩ, phán đoán nhưng không đối chiếu với bất cứ hình ảnh nào
thuộc về kinh nghiệm.
(iii)
Do vậy, nhận
thấy chỉ có thể thay thế nhận ra ở
cách dùng thứ hai đã nói ở trên.
Tuy nhiên, nhận thấy khác nhận ra về ngữ nghĩa. Có thể diễn giải
như sau:
Khi người nói phát ngôn “Tôi nhận
thấy X”, có nghĩa là
·
“Tôi thấy/nghe/ngửi cái gì đó và tôi cho là X”;
·
“X = [cái
gì đó hành động hoặc có thuộc tính/tính chất nào đó]”
·
Như vậy, X là kết quả nhận thức của người nói về
những gì mà người nói tri giác, X có thể đúng và có thể sai.
Trong khi đó, khi người nói “Tôi nhận
ra X”, có nghĩa là
·
“Tôi thấy/nghe/ngửi cái gì đó và tôi suy nghĩ và biết là X”
·
“X là nhận thức của người nói dựa trên những gì
tri giác được, nhưng khác với nội dung tri giác” (Hai người chứng kiến cùng một
sự tình nhưng có người nhận ra X, có
người nhận ra Y và có người không nhận ra gì cả – chỉ thấy hoặc nghe sự
tình đó)
·
Như vậy, X là kết quả nhận thức của người nói về
bản chất của sự tình.
Nói chung, dùng nhận ra khi nhận định của chủ thể là một
bản chất, đối lập với bề ngoài của sự tình (có nghĩa là điều mà chủ thể nhận ra được xem là đúng sự thật); và điều
mà chủ thể nhận ra thường là kết quả trực tiếp của quá trình suy nghĩ, suy
đoán, căn cứ trên nhiều dữ liệu.
Ngược lại, dùng nhận thấy khi nhận định của chủ thể là kết
quả trực tiếp của một nội dung tri giác (thường là thị giác) mà chủ thể ghi nhận
được; chính từ cái nội dung tri giác này mà chủ thể cho là mình “nhận thấy” điều
gì đó.
(23) Tôi nhận thấy (> nhận ra) anh
Tèo để ý chị Na từ lâu rồi. (nhận thấy
tốt hơn nhận ra)
(24) Ông nhận thấy (?nhận ra) tình
hình thay đổi rất nhanh.
(25) Tôi nhận ra (?nhận thấy) mình
đã yêu cô ấy.
(26) Ông đã nhận ra (?nhận thấy) có bàn tay của mafia trong vụ này.
(27) Nó nhận ra (nhận thấy) vẻ
không hài lòng của mẹ nó về cô con dâu tương lai.
Ở câu (27), nếu
dùng nhận ra có thể hiểu: nó “ghi nhận”
những hành động/thái độ của mẹ nó, nó suy nghĩ, phân tích, suy đoán, và nó hiểu
ra (= biết) là mẹ nó không thích bạn gái của nó. (Trước mặt mọi người
mẹ nó vẫn tỏ ra lịch sự, quan tâm, ngọt ngào.)
Trong khi đó, ở
(27) nếu dùng nhận thấy có thể hiểu:
nó “phát hiện” mẹ nó có một hành động/thái độ gì đó mà nó
nghĩ là mẹ nó không thích bạn gái của nó (chẳng hạn chỉ một cái lắc đầu nhẹ, một
lời nói lạnh tanh, v.v.); và nó nhận định như câu (27). Lưu ý là suy nghĩ của
nó có cơ sở từ một “phát hiện” chủ quan nào đó, không chắc là đúng sự thật.
No comments:
Post a Comment