Nghĩ và suy nghĩ là hai từ cùng nghĩa. Nhưng có
nhiều khi người nói vô tình quên rằng nó vẫn là hai từ khác nhau, do vậy có khi
sử dụng nhầm lẫn hoặc kém tự nhiên.
Có hai trường hợp dùng nghĩ
chứ không dùng suy nghĩ:
1.
Khi dẫn nhập cho một bổ ngữ là một tiểu cú (hay
cụm chủ - vị, clause) theo kiểu như một lời dẫn (có thể có là hay rằng liên kết), chỉ
có thể dùng nghĩ chứ khó có thể dùng suy nghĩ.
Ví dụ:
(1) (Anh
thấy đề nghị đó thế nào?)
a. Tôi nghĩ (là) khả thi.
b. *Tôi suy nghĩ (là) khả thi.
c. Tôi nghĩ nó khả thi.
d. *Tôi suy nghĩ nó khả thi.
(2) (Tại
sao em không chọn trường đó?)
a. Em nghĩ (là) trường đó xa.
b. *Em suy nghĩ (là) trường đó xa.
(3) (Tại
sao em không làm bài tập?)
a. Xin lỗi cô. Em nghĩ (là) thứ sáu nộp.
b. *Xin lỗi cô. Em suy nghĩ (là) thứ sáu nộp.
Các câu sau đây cũng thuộc trường hợp trên:
(4) a.
Anh nghĩ ai là thủ phạm?
b. *Anh suy nghĩ ai là thủ phạm?
(5) a.
Món đó, anh nghĩ bao nhiêu?
b. *Món đó, anh suy nghĩ bao nhiêu?
(6) a.
Chiếc xe đó, hiện giờ, anh nghĩ ở đâu?
b. *Chiếc xe đó, hiện giờ, anh suy nghĩ ở đâu?
(7) a.
Về chuyện đó anh nghĩ sao?
b. ??Về chuyện đó, anh suy nghĩ sao?
Tuy nhiên, với một phát ngôn có thành phần đi sau là một tiểu
cú có độ dài nhất định vẫn có thể xuất hiện sau suy nghĩ. Chẳng hạn:
(8) Tôi
suy nghĩ, trong một nền giáo dục tốt sẽ không có đứa trẻ nào cảm thấy mình là
“người lạ”.
(9) Về vấn đề đó, ông suy nghĩ, nó vẫn còn nhiều điểm
bất ổn về mặt xã hội.
Có
lẽ chính khả năng này là nguyên nhân gây ra hiện tượng nhập nhằng giữa nghĩ và suy nghĩ.
Chúng
tôi cho rằng ở đây có sự khác biệt về ngữ pháp giữa hai từ đang bàn.
Với
nghĩ, chúng ta có cấu trúc:
(i) Đề - Thuyết (hoặc S - V[nghĩ] -
O[clause/VP] – diễn đạt theo “truyền thống”)
Với suy nghĩ, chúng ta có cấu trúc:
(ii) Đề - Thuyết, Đề - Thuyết (hoặc S - V[suy
nghĩ], S - V - O)
Ở (i), bổ ngữ là một tiểu cú hoặc một
ngữ vị từ; khi nó mang hình thức ngữ danh từ thì ngữ danh từ đó phải có thuyết
tính, hay nói rõ hơn, nó là phần thuyết của một tiểu cú mà phần đề đã được tỉnh lược. Vd:
(10) a. (Người đàn ông kia là ai vậy?)
b. Tôi nghĩ (là)
bạn của chủ nhà. (/người đàn ông kia là bạn của chủ nhà)
Ở (ii), chúng ta có hai sự tình được
diễn đạt bằng hai cấu trúc đề - thuyết; giữa chúng có một quan hệ mà Halliday gọi
là “phóng chiếu” (mapping). Về lý thuyết, người nói có thể chọn lựa một trong
hai từ (nghĩ và suy nghĩ) để diễn đạt, và
thường thì người bản ngữ không nhầm lẫn trong sự chọn lựa này.
2.
Nghĩ có
thể đi với phó từ (adverb) đến (chỉ đích hay đối tượng) hoặc ra
(chỉ kết quả), còn suy nghĩ thì hầu như không thể. (Thật ra, có
trường hợp vẫn có thể chấp nhận, nhưng không tự nhiên lắm.)
Ví dụ:
(11)
a. Anh có bao giờ nghĩ đến em không?
b. ??Anh có
bao giờ suy nghĩ đến em không?
(12)
a. Cô ấy luôn nghĩ đến mọi người.
b. ??Cô ấy
luôn suy nghĩ đến mọi người.
(13)
a. Yêu nhau thì phải nghĩ đến nhau/hôn nhân.
b. ??Yêu
nhau thì phải suy nghĩ đến nhau/hôn nhân.
(14)
a. Khi quyết định như vậy, anh có nghĩ đến những
hậu quả có thể xảy ra cho người xung quanh không?
b. ?Khi quyết
định như vậy, anh có suy nghĩ đến những hậu quả xảy ra cho người xung quanh
không?
(15)
(Anh nghĩ ra chưa?)
a. Tôi nghĩ
ra rồi.
b. ??Tôi
suy nghĩ ra rồi.
c. Tôi chưa
nghĩ ra.
d. ??Tôi chưa
suy nghĩ ra.
(16)
a. Ồ, nghĩ ra rồi!
b. *Ồ, suy
nghĩ ra rồi!
(17)
a. Bài toán đó, bao giờ nghĩ ra thì gọi cho tớ!
b. ??Bài toán đó,
bao giờ suy nghĩ ra thì gọi cho tớ!
Nhưng khả năng xuất hiện trước giới từ (preposition) về
của cả hai gần như ngang nhau.
Ví dụ:
(18)
a. Đôi khi tôi cũng nghĩ về cô ấy.
b. Đôi khi
tôi cũng suy nghĩ về cô ấy.
(19)
a. Lúc nào anh ta cũng nghĩ về chuyện tiền.
b. Lúc nào
anh ta cũng suy nghĩ về chuyện tiền.
(20)
a. Bây giờ anh mới có thì giờ nghĩ về những chuyện
vừa xảy ra.
b. Bây giờ anh mới
có thì giờ suy nghĩ về những chuyện vừa xảy ra.
No comments:
Post a Comment