Tri giác là một năng lực khách quan của động vật nói chung, con người
nói riêng. Nó gắn với hoạt động của các cơ quan cảm giác (ngũ quan: thị giác,
thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác). Do vậy, các vị từ tri giác đòi hỏi
chủ thể tri giác phải là một thực thể người hoặc động vật [+animate], hoặc một
vật thể nào đó được người nói gán cho năng lực tri giác (nhân hoá).
Trong các tài liệu nghiên cứu tiếng Việt trước đây, vị từ tri giác đã được
một số tác giả đề cập ở góc độ từ vựng (tiêu biểu là Nguyễn Kim Thản 1977) và
ngữ nghĩa-cú pháp (tiêu biểu là Cao Xuân Hạo 1991). Nguyễn Kim Thản xếp vị từ tri giác vào nhóm “động
từ cảm nghĩ – nói năng” vì “những động từ này biểu thị sự hoạt động của trí não,
của các cơ quan cảm giác và ngôn ngữ” (NKThản 1977: 158). Cao Xuân Hạo nhắc đến
vị từ tri giác khi bàn về hành động vô tác, và cho rằng một vị từ tri giác, chẳng
hạn như nhìn, biểu thị một quá trình ứng
xử, có hai diễn tố (hành thể và mục tiêu). Tuy nhiên, nội dung vấn đề tác giả đưa
ra vẫn còn rất sơ lược.