Wednesday 4 April 2012

LƯỢNG – SỐ – SỐ LƯỢNG



Nhiều người cho rằng lượng dùng với những danh từ/ngữ không đếm được còn số/số lượng thì đi với danh từ/ngữ đếm được. Cách hiểu này tỏ ra không bao quát được tất cả các trường hợp dùng 3 từ này.

A.                LƯỢNG
       Lượng thường đi trước những danh từ/ngữ biểu thị những vật thể (chúng tôi dùng khái niệm này để gọi chung cả người, hiện tượng, sự việc được danh hóa) không đếm được, trước hết là những danh từ biểu thị chất liệu; trong khi đó số thường dùng để biểu thị những vật thể đếm được. (Vật thể chứ không phải là danh từ đếm được hay danh từ không đếm được.)


(1)   Lượng mưa hằng năm là 1500mm.
(2)   Lượng canxi trong viên thuốc này là 10mg.
(3)   Lượng độc chất này đủ giết chết một con voi.
(4)   Lượng xe lưu thông trên đường gia tăng mạnh, đã vượt tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng.
(5)   Số/số lượng học sinh đạt điểm 10 đã giảm so với năm ngoái.
(6)   Số/số lượng bài sinh viên nộp là 35.
(7)   Số/số lượng học bổng của chương trình quá ít trong khi học phí phải đóng khá cao.

Ở đây có một điều quan trọng: trong tư duy của người Việt Nam, một vật thể có thể đếm được hay không là căn cứ vào hình thức tồn tại trong tự nhiên của nó.
Nếu vật thể tồn tại phân lập trong không gian, theo tư duy người Việt, thì được xem là đếm được; nếu ngược lại là không đếm được.
Nếu xét về tính “phân lập” trong không gian như trên thì rõ ràng số sẽ đi với danh từ đơn vị (tức loại từ, là lớp từ mà đặc trưng ngữ nghĩa cơ bản của nó là tính phân lập trong không gian, thành từng cá thể), còn lượng sẽ đi với danh từ khối (tức danh từ “thường”, đặc trưng ngữ nghĩa cơ bản là biểu hiện loại, chất liệu); vì người Việt đếm bằng cái, con, bức, trận, v.v. chứ không đếm bằng ghế, bò, tranh, mưa, v.v..
Ta sẽ có:
  •          số trận mưa – lượng mưa
  •          số giờ nắng – lượng nắng
  •          số ly/chai/hồ nước – lượng nước
  •          số viên can-xi – lượng can-xi
  •          số tin/mẩu tin – lượng thông tin
  •          số cây thông – lượng dầu thông
  •          số mặt hàng – lượng hàng hóa
  •          số đầu sách phát hành – lượng sách phát hành
Xét ở góc độ này, sự đối lập giữa sốlượng khá rạch ròi.
Theo “ngữ pháp truyền thống” (?) danh từ đếm được là những từ như bàn, ghế, sách, bút, sông, xe, v.v.; danh từ không đếm được là sữa, đường, nước, bia, v.v.; loại từ thì không được xem là đếm được hay không, dù ai cũng biết là người VN đếm ba cuốn sách, hai chiếc xe chứ không phải ba sách, hai xe. Và nếu hiểu chặt chẽ, thì vẫn có thể đếm được hai ly sữa, ba muỗng đường. Nói điều này để thấy rằng miêu tả ngữ pháp bằng những khái niệm quen thuộc (đếm được – không đếm được) không chắc là tiện lợi hơn: nếu nói lượng đi với danh từ không đếm được thì sẽ loại bỏ cách nói hết sức đúng ngữ pháp của tiếng Việt, chẳng hạn lượng xe, lượng sách, lượng tài liệu, lượng bài, v.v..

B.                 SỐ
Số đi với danh từ đơn vị, đây là một đặc trưng mà lượng không có được.
Tuy nhiên, trong thực tế sử dụng tiếng Việt, những trường hợp số được dùng trước những danh từ khối cũng rất nhiều, nếu không muốn nói là nhiều hơn (và tự nhiên hơn) những trường hợp dùng trước danh từ đơn vị. Ví dụ:
(8)   Số bàn cần thanh lý đợt này là 60 cái.
(9)   Cơ quan kiểm dịch sẽ tiêm phòng cho số trâu nhiễm bệnh.
(10)   Chính phủ quyết định tịch thu số xe nhập lậu.
Và nó đứng trước cả những danh từ khối biểu thị chất liệu – thường được hiểu là danh từ không đếm được “chính danh”:
(11)                Số nước cất trong kho dược chỉ đủ dùng trong 2 ngày.
(12)                Anh làm gì với số xi măng chết này?
(13)                Bà không hy vọng gì tìm lại số vàng đã mất.
(14)                Số lúa đó coi như tôi cho luôn vợ chồng anh.
(15)                Sau khi lập biên bản xong thì số ma túy đó biến mất.
Rõ ràng, nếu căn cứ trên tính [± đếm được] của danh từ/ngữ thì sẽ không có sự phân biệt giữa sốlượng.

     Như trên vừa nói, lượng đứng trước danh từ khối (chỉ loại như xe, sách, chỉ chất liệu như sữa, đường), số đứng trước danh từ đơn vị (như trận, ngày, học sinh) và danh từ khối (cả xe, sách, cả sữa, đường).
Tuy nhiên, có một sự “phân bố bổ sung” khá đều đặn giữa lượngsố khi cùng đứng trước danh từ khối chỉ loại: lượng thường biểu thị số lượng lớn, không giới hạn và không xác định, trong khi số biểu thị lượng có giới hạn và thường là xác định.

(16)                a. Lượng/??số xe lưu thông đã vượt quá sức chịu đựng của hệ thống đường sá nội thị.
     b. Số/*lượng xe gửi ở đây là của nhân viên công ty.
(17)                a. Lượng/*số hàng hóa trao đổi giữa hai nước ngày càng tăng.
     b. Hải quan quyết định thu giữ số/*lượng hàng hóa này.
     c. Số/*lượng hàng hóa bị thu giữ này không có người nhận.
(18)                a. Số/*lượng tiền kiếm được nó đưa hết cho mẹ.
     b. Các ngân hàng không kiểm soát được lượng/*số tiền lưu thông trên thị trường.
(19)                a. Số/??lượng tiền mặt mang theo cũng đủ để mua sắm, không cần đến thẻ.
     b. Lượng/*số tiền mặt lưu thông trên thị trường càng lớn thì nguy cơ lạm phát càng cao.
(Do đặc điểm này, có thể rút ra một nhận xét mang tính thực hành: thường đi với số là những danh từ/ngữ biểu thị những vật thể cụ thể, liên quan đến sinh hoạt hàng ngày của một cá nhân hay gia đình; trong khi đó, thường đi với lượng là những danh từ/ngữ biểu thị những vật thể hiểu khái quát hay có khối lượng lớn, có tính chất vĩ mô, liên quan đến kinh tế, xã hội của cơ quan, tổ chức, quốc gia, thế giới.)
Ngoài ra, còn một biểu hiện quan trọng của số: khi đứng trước danh từ khối và có định ngữ hạn định (như số vàng nhập lậu, số sách này, số trâu nhiễm bệnh, v.v.) thì số hành chức như một danh từ đơn vị (loại từ) biểu thị một tập hợp toàn khối có thể đếm được, tính toán được của vật thể theo sau.
    Chính vì biểu hiện này số có thể dễ dàng được thay thế bằng một danh từ đơn vị (biểu thị) tập hợp, chẳng hạn:
  •          số trâu bị bệnh – đàn/đám trâu bị bệnh
  •          số xe này – đống/đám/mớ xe này
  •          số vàng nhập lậu – mớ/đống vàng nhập lậu
  •          số ma túy đó – đống/gói/ ma túy đó
  •          số nợ – phần/đống nợ
  •          số lãi – phần lãi
  •          số dư – phần dư
  •          số ruộng – phần/đám ruộng, v.v..

Hơn nữa, do mang đặc trưng của danh từ đơn vị, số có thể làm trung tâm của những ngữ đoạn như sau:
(20)                Chị thấy số đó đẹp không? (số/đống/mớ quần áo)
(21)                Số này tôi tặng thư viện, số còn lại cậu cứ lấy hết đi. (số/đống/mớ/phần sách)

Thậm chí, nó có thể đứng một mình làm thành ngữ đoạn hoặc kết hợp với quán từ bất định một:
(22)                Sách này anh cho tôi à? Tôi lấy một số thôi.
(23)                Lớp học như cái kho chứa đồ cũ vậy: bàn ghế (một) số thì hư, (một) số thì gãy.
(24)                Cả trung đội tan tác: (một) số chết, (một) số bị thương, (một) số đào ngũ.

(Ghi chú: Số hoạt động như một danh từ đơn vị chứ không thực sự là danh từ đơn vị, vì nó không được đếm như những danh từ đơn vị bình thường (không nói hai/ba/nhiều số sách).)

C.                SỐ LƯỢNG
Số lượng có thể đứng trước một danh từ/ngữ mang ý nghĩa chủng loại hay tập hợp (danh từ khối như bàn, bò, tranh, hoặc danh ngữ đẳng lập như quần áo, sách báo, trâu bò) – tương tự số.

(25)                Ông là họa sĩ có số lượng/số tranh bán được nhiều nhất trong cuộc triển lãm.
(26)                Trong tuần qua, số lượng/số xe bị tạm giữ là 567 chiếc.
(27)                Diễn đàn này có số lượng/số thành viên cao nhất.
(28)                Số lượng/số sách báo phát hành hằng ngày lên đến hàng ngàn tờ.

– Nếu theo sau là một danh từ/ngữ Hán Việt hoặc vay mượn Ấn Âu thì sốsố lượng có thể xem là đồng nhất: số/số lượng học sinh, bệnh nhân, thành viên, ủy viên, vũ khí, trang phục, cơ quan, tổ chức, tivi, điện thoại, iPad, laptop, netbook, v.v.. Có lẽ lý do là những danh từ/ngữ loại này mang thuộc tính chủng loại hoặc tập hợp hơn là mang tính đơn vị – dù rằng người Việt vẫn có thể nói 12 thành viên, 5 tổ chức, 2 tivi, 3 laptop.
– Nếu theo sau là một danh từ đơn vị chính danh thì có thể dùng số chứ khó có thể dùng số lượng. Chẳng hạn:

(29)                Số/?số lượng bộ đồng phục đăng ký là 800. (ss: số lượng đồng phục)
(30)                Chúng tôi đã gửi thống kê số/??số lượng con bò chết trong tuần qua.
(31)                Số/?số lượng giường bệnh tính theo đầu người ở vùng này rất thấp.
(32)                Hỏi: Số/*số lượng viên kẹo mỗi em được nhận là bao nhiêu?
(33)                Tai nạn giao thông quý I giảm cả về số/*số lượng vụ lẫn số/?? số lượng người chết.

(Ghi chú: Theo ghi nhận của chúng tôi, thật ra, ngay cả số cũng rất ít khi đi với danh từ đơn vị, đặc biệt là cái, con, chiếc và theo sau là những danh từ biểu thị những vật thể “thông thường”, vì kém tự nhiên. Thử so sánh:
  •          số căn nhà bị cháy – ?số cái ghế bị gãy
  •          số đầu gia súc xuất chuồng – ?số con gà làm thịt
  •          số vụ tai nạn giao thông – ?số chiếc xe bị hư
  •          số thùng chén đĩa bị vỡ – ?số cái đĩa bị vỡ
Về hiện tượng “kém tự nhiên” này, chúng tôi xin để ngỏ.)

  – Đứng trước những danh ngữ có lượng từ các, những, mỗi, từng thường là số lượng chứ không thể là số (hay lượng).

(34)                Hầu hết các trường đều tuyển thẳng không hạn chế số lượng các TS trong đội tuyển Olympic quốc tế năm 2011.
(35)                Báo cáo của Bộ Nội vụ cho thấy “số lượng các thứ trưởng thuộc các bộ quá nhiều so với quy định của CP”.
(36)                Bộ Nội vụ khẳng định: cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa sau tinh gọn, hợp lý hơn khóa trước; số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ từ 48 cơ quan năm 2001 đến 2010 còn 30 cơ quan; giảm được 18 cơ quan.
(37)                Số lượng những thuê bao không đăng ký hoặc đăng ký “ảo” lên đến hàng triệu.
(38)                Chị kê khai cụ thể số lượng mỗi/từng loại (giấy bạc) nhé!

– Trong thực tế sử dụng, có thể thấy thường không dùng số lượng mà dùng số cho những lượng đã hạn định, được xem là ít. Chẳng hạn: khó nói số lượng người trong gia đình, số lượng bạn bè, số lượng bạn thân, số lượng trứng/chén đĩa bị vỡ, số lượng món ăn trong bữa tiệc, v.v..
           
– Xét về ngữ pháp lẫn ngữ nghĩa, số với tư cách là danh từ đơn vị (như vừa nói ở trên) không thể thay bằng số lượng. Các câu sau đây không thể dùng số lượng:

(39)                Ai sẽ trả tiền số sách đó?
(40)                Số quần áo này chị tặng cho trẻ em nghèo.
(41)                Siêu thị sẽ chuyển số hàng đã có hóa đơn đến tận nhà.
(42)                Tôi muốn báo cáo cách xử lý số trâu bò bị nhiễm bệnh.

Do số lượng không có đặc trưng của một danh từ đơn vị như số, nó không thể đi với các danh từ khối biểu thị chất liệu. (Không thể nói: số lượng vàng, số lượng ma túy, số lượng thịt, số lượng vitamin, số lượng đất, số lượng nước, v.v..).

Chú thích:
Khi diễn đạt khái niệm lượng với tư cách là một bình diện của sự vật (nói nôm na là “đối trọng” của chất lượng) thì hầu như chỉ dùng số lượng chứ không dùng số, và hiếm khi dùng lượng. Xét về mặt này thì sốsố lượng là hai khái niệm không đồng nhất với nhau cả về khả năng hoạt động và ngữ nghĩa.

(43)         Quý 1/2011 xuất khẩu gạo đạt cao nhất về số lượng và giá trị.
(44)        Loài quạ có khả năng phân biệt những ký hiệu thể hiện số lượng giống như con người.
(45)        Ông  Phạm Ngọc Trúc, Phó chánh thanh tra Bộ GD-ĐT cho biết kỳ thi năm 2011 sẽ vẫn tiếp tục điều động lực lượng thanh tra ủy quyền từ các trường ĐH, CĐ về coi thi ở các địa phương; số lượng tương đương với năm 2010.
(46)        ĐH Quốc gia Hà Nội ưu tiên xét tuyển các đối tượng theo quy định không hạn chế số lượng.
Ở các ví dụ trên, số (và lượng) tuyệt nhiên không thể thay cho số lượng.
Do đặc điểm này, số lượng có thể đi với ngay trước các con số; trong khi đó, nếu muốn kết hợp với các con số thì số cần phải có định ngữ là danh từ biểu thị vật thể.

(47)      Số lượng/*số 300 cái một ngày không phải là quá sức đối với công nhân. (ss: Số áo 300 cái…)
(48)        “Hoa học trò” phát hành mỗi tuần một kỳ với số lượng/*số gần 20 vạn bản.
          (49) Thế khai nhận hằng ngày mua bình gas không rõ nguồn gốc trên thị trường, về sang chiết vào bình gas mini rồi đem đi tiêu thụ với số lượng/*số khoảng 100 bình/ngày.

No comments:

Post a Comment