Monday 22 July 2013

LUÔN


      Luôn là một từ khó, có nhiều biểu hiện ngữ nghĩa khác nhau. Trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê, 1995), luôn được định nghĩa như sau: 1. Một cách lặp lại nhiều lần hoặc liên tiếp không ngớt. Đến thăm nhau luôn. 2. Một cách không ngừng hoặc gần như đồng thời, không để có sự gián đoạn. Viết luôn một lúc mấy lá thư. 3. Liền ngay tức thời (sau sự việc có liên quan). Nói xong, làm luôn. 4. Không phải chỉ có tính chất nhất thời, trong một thời gian, mà suốt từ đó về sau là như thế. Nó bỏ làng đi luôn không về nữa.
Về cơ bản, một số tài liệu khác cũng trình bày nghĩa của luôn tương tự.
Những nét nghĩa của luôn diễn giải như trên nói chung là chưa giúp đối lập luôn với những từ có nghĩa gần gũi. Chẳng hạn, với nghĩa 1 luôn có thể thay bằng liên tục, thường xuyên; với nghĩa 2 luôn có thể thay bằng liên tục, liền, ngay; với nghĩa 3 luôn có thể thay bằng liền, ngay; với nghĩa 4 luôn có thể thay bằng mãi, hẳn. Nếu hình dung ngữ nghĩa của luôn rời rạc như vừa nói sẽ dễ dàng đồng nhất luôn với các từ/ngữ có thể thay thế cho nó; và hệ quả là chúng ta có một tập hợp các khả năng “đồng nghĩa” rất đáng ngờ - một hiện tượng khó chấp nhận về mặt lý thuyết. Hơn nữa, theo ngữ liệu mà chúng tôi thu thập được từ một số tác phẩm văn chương, và từ khẩu ngữ tự nhiên (ghi âm) thì luôn còn một vài biểu hiện khác mà Từ điển tiếng Việt (TĐTV) chưa đề cập, không thể thay bằng các từ/ngữ nói trên; và nếu bổ sung những biểu hiện này vào từ điển thì sự rời rạc và bất cập vừa nói lại càng lộ rõ hơn.
Trong phạm vi bài này chúng tôi sẽ phân tích ngữ nghĩa của luôn dựa trên tiền đề rằng ngữ nghĩa của một từ (thường là “hư từ”) bao giờ cũng được hình thành trên một cơ sở nhận thức thống nhất, liên quan đến cách nhận thức thực tại của người bản ngữ. Theo đó, các nét nghĩa của luôn có thể được nhận thức như là các biểu hiện của cùng một nội dung ngữ nghĩa ở mức độ cơ sở của nó (semantic primitives, Wierzbicka 1996); và chính điều này làm cho nó khu biệt với các khả năng thay thế có tính chất tình huống của những đơn vị từ vựng khác.
1.    Xét các ví dụ sau đây:
(1) Viết luôn một lúc mấy lá thư. (TĐTV)
(2) Lão rót luôn bốn cốc, đều tăm tắp như vậy, không hề nhểu ra bàn một giọt rượu nào. (ĐR)
(3) Khói vị thuốc bốc hôi quá. Tôi chóng mặt ọe ọe luôn mấy cái tưởng đã nôn rồi. (ĐR)
(4) Tôi làm hợp đồng thuê bao với HTVC từ tháng 1 và đóng luôn phí thuê bao 3 năm (hết năm 2009). (Báo TT)
(5) Bác Ái gật đầu đáp rằng: "Thưa tôi mạnh", rồi day lại móc túi lấy bạc cắc trả tiền xe, giành trả tiền luôn hai cái xe, rồi mới dắt nhau vô nhà. (MCT)
Các câu trên, ứng với nghĩa 2 của TĐTV, biểu thị “một cách không ngừng hoặc gần như đồng thời, không để có sự gián đoạn”. Tuy nhiên, nếu xét kỹ, bản chất của các hành động được biểu thị trong các câu trên có sự khác biệt rõ rệt. Nếu hành động “viết thư” (ở vd (1)) có thể chia cắt như là một chuỗi hành động viết nối tiếp nhau, “không có sự gián đoạn” (viết lá thư 1, sau đó viết lá thư 2, sau đó viết lá thư 3...) – danh ngữ đối tượng đứng sau vị từ cho phép người Việt tri nhận quá trình “viết” như thế – thì ở vd (2) hành động “rót bốn cốc” có thể được tiến hành bằng một “động tác” duy nhất: miệng chai rượu có thể rê từ cái cốc thứ nhất đến cái cốc thứ tư mà “lão” không cần phải nhấc tay lên (cách rót rượu và rót trà này vẫn rất phổ biến trong sinh hoạt thường nhật), dù rằng vẫn có thể “lão” rót cốc 1, sau đó rót cốc 2, sau đó rót cốc 3, sau đó rót cốc 4, tương tự hành động “viết”. Và ở vd (3), về mặt nhận thức, “oẹ luôn mấy cái” khó chia cắt thành các khúc đoạn “oẹ 1”, “oẹ 2”, “oẹ 3” (cf: “oẹ mấy lần”). Tuy khả năng “phân khúc” hành động khác nhau như trên, cả ba ví dụ đều phản ánh những quá trình thống nhất và duy nhất về mặt nhận thức (trước hết, và suy cho cùng, đây là sự thống nhất và duy nhất về mặt tâm lý) mà chúng tôi tạm gọi là quá trình nhất thể, nhờ sự có mặt của luôn.  Nghĩa nhất thể của luôn cho phép thống nhất các sự tình kể cả khi các khúc động hành động trong sự tình đó là bất khả phân. Điều này cũng đúng cho cả hai ví dụ (4) và (5).
 Ở vd (4) và (5), nếu chỉ xét từ góc độ đối tượng hữu quan thì nghĩa của hai câu có thể được diễn đạt lại như sau: “Tôi đóng phí năm thứ nhất, đồng thời đóng  phí năm thứ hai, đồng thời đóng phí năm thứ ba”; “Bác Ái trả tiền xe thứ nhất đồng thời trả tiền xe thứ hai” (tức là hai ba hành động riêng rẽ được thực hiện đồng thời). Như vậy, từ góc độ này, nội dung của câu biểu hiện các sự tình không phải nối tiếp nhau về mặt thời gian, tức là không có dáng vẻ gì giống với định nghĩa 2 của Từ điển. Và ở (4) và (5) lại có thể thay luôn bằng cả/lẫn mà nội dung biểu hiện không có gì thay đổi (duy nghĩa thời gian là không thể hiện): “Tôi đóng phí năm thứ nhất, và cả năm thứ hai, cả năm thứ ba” hoặc “Tôi đóng phí cả ba năm”, và “Bác Ái trả tiền cả xe thứ nhất cả xe thứ hai” hoặc “Bác Ái trả tiền cả hai xe”.
Xét từ góc độ hiện thực (qua hành động mà vị từ biểu thị), đóng phí một năm hay ba năm thì cũng chỉ thực hiện một lần cái hành động gọi là “đóng”, trả tiền cho một xe hay cho hai xe thì cũng chỉ thực hiện một lần cái hành động gọi là “trả”. Tính nhất thể của quá trình (4) và (5) có vẻ khó chia cắt hơn so với các câu trước: “đóng phí thuê bao ba năm” và “trả tiền hai cái xe” đều được xem là một hành động duy nhất.
Như vậy, từ vd (1) đến vd (5), tính chất “không ngừng”, “gần như đồng thời”, “không để có sự gián đoạn” của luôn có mức độ khác nhau, tạo thành một thể liên tục (continuum). Về mặt nhận thức, tính liên tục (sự kế tiếp nhau của các sự tình) không thể không đối lập với tính đồng thời (sự đồng nhất trên trục thời gian của các sự tình). Vì vậy, chúng tôi cho rằng trong cấu trúc “V + luôn” ở các trường hợp trên, hành động biểu thị bằng vị từ được xem như được thực hiện một lần, bất kể đối tượng tác động của nó có phân lập trên trục thời gian hay không. 
Hay nói cách khác, sự có mặt của luôn đã góp phần biểu thị tính đồng nhất hay nhất thể của một quá trình trong đó diễn ra hành động mà vị từ biểu thị.
Có hai trường hợp: (i) Sự có mặt của luôn biểu hiện một sự tình được xem là duy nhất, hành động mà vị từ biểu thị được thực hiện duy nhất một lần; (ii) Sự có mặt của luôn đã làm cho các khúc đoạn sự tình được biểu thị trong câu - nếu đối tượng của hành động được phân lập - trở thành một chuỗi liên tục và liền lạc. Tuy nhiên, sự liên tục và liền lạc này là sự liên tục, liền lạc nhất thể chứ không phải là sự liên tiếp (hành động này tiếp sau hành động kia). Bởi vì, nếu cần đánh dấu hiện tượng thứ hai này thì trong tiếng Việt đã có liền, ngay, liên tục, liên tiếp, và nhiều cách diễn đạt khác. (Điều này tương tự như cách vẽ một chuỗi hình ảnh chỉ bằng một nét bút (không nhấc bút lên), khác với cách vẽ thông thường (hình thứ hai được vẽ sau khi kết thúc hình thứ nhất, có thể đánh dấu ranh giới thời gian giữa các hình)).

2.    Xét các trường hợp sau:
(6) Anh về trong này rồi ở luôn hay trở ra Hà Nội nữa? (MCT)
(7) Sau khi nướng xong mực cho mấy người lính "cảm tình", thím Ba ra đứng luôn tại cửa. (HĐ)
(8) Có bữa Quảng Giao dạy học năm giờ ra đi mất cho tới sáng rồi dạy luôn đến trưa bữa sau mới về nhà ăn cơm, vóc ốm mình gầy, mắt vàng ẻo. (MCT)
(9) Tôi và Tốt ngồi nhậu cho đến mặt trời lặn. Không hiểu sao mà tôi cắt luôn cơn sốt. (DC)
(10) Bà ra đi vào buổi tối. Sau khi cơm nước xong, thấy mệt, bà lên giường nằm. Thế rồi thiếp luôn, cứ y như một người đi vào giấc ngủ ngàn năm. (BM)
Thoạt nhìn, những trường hợp trên đây có vẻ ứng với nghĩa thứ 4 của TĐTV: “không phải chỉ có tính chất nhất thời, trong một thời gian, mà suốt từ đó về sau là như thế”. Nhưng nếu xét kỹ thì định nghĩa của TĐTV chỉ đúng cho vd (6) chứ không đủ bao quát cho ba câu tiếp đó. Hành động “đứng” ở (7) không thể hiểu là “suốt từ đó về sau là như thế” vì hiện tượng này chỉ có tính chất nhất thời, mặc dù có thể kéo dài (câu chuyện cho biết thím Ba đang nóng lòng trông ngóng trời mưa để anh em trong hòn có nước uống). Hành động “dạy” ở (8) cũng chịu sự hạn định về thời gian do trạng ngữ “đến trưa bữa sau” biểu thị.
Ở vd (9), “cắt luôn cơn sốt” có lẽ không có nghĩa là “cắt” “suốt từ đó về sau là như thế”; “cơn sốt” chỉ bị cắt một lần (“cắt” là vị từ điểm tính), dù cái kết quả còn lại là “tôi” không bị sốt nữa. Tuy nhiên, luôn chỉ tác động đến “cắt”, nghĩa là cái ý nghĩa sau đó “tôi” không còn sốt nữa chỉ là hệ quả suy ra từ cái khung quá trình nhất thể của ngữ nghĩa “cắt luôn”; hơn nữa, “cắt” không có sự nối kết nào về mặt thời gian với một hành động khác (theo kiểu “nói xong, làm luôn”) nên cũng không thể liên quan đến nghĩa “liên tục”, “không gián đoạn”.
Ở vd (10), “thiếp” không phải là một vị từ điểm tính như “cắt”, nhưng “thiếp luôn” ở đây không có nghĩa là “từ đó về sau là như thế”, vì “thiếp” bao giờ cũng có nghĩa là rơi dần vào trạng thái không còn tri giác hay trạng thái ngủ (không thể nói “nó đang thiếp”, “nó đã thiếp” mà chỉ có thể nói “nó đang/đã/sắp thiếp đi”), và quá trình “thiếp” bao giờ cũng kết thúc ở một trạng thái khác (“tỉnh (dậy)”, “ngủ”, “chết”). Như vậy “thiếp luôn” không thể hiểu là một trạng thái kéo dài mãi mãi mà chỉ có thể hiểu đó là một quá trình được đánh dấu là nhất thể; từ đó suy ra rằng “bà” đã “ra đi” chứ bản thân “thiếp luôn” không hàm nghĩa “ra đi”. (Hơn nữa, vế câu đi sau đã khẳng định lại điều này: “cứ y như...”).
Trong các trường hợp vừa đề cập cho phép nghĩ rằng luôn là một tác tố đánh dấu tính thống nhất và duy nhất hay tính nhất thể của một quá trình được biểu thị bằng vị từ đi trước. Nói đến quá trình tức là nói đến thời gian: dường như người Việt có xu hướng nhất thể hoá một quá trình hoặc một chuỗi hành động bằng cái khung ngữ nghĩa do “V + luôn” tạo nên.

3.     Xét các phát ngôn mà chúng tôi đã trực tiếp ghi âm:
(11) (– Ai đưa con đi học hả?) – Ba con. Ba con đưa anh hai luôn.
(12) (– Vậy ai rước con? Ba hay mẹ?) – Ba luôn.
(13) Con gái nó dễ. Nó hả, ăn cơm nó tự múc ăn luôn. Nó ngồi bàn luôn, nó ăn chung luôn chứ hổng có chờ ai đút.
Có thể thấy ngay rằng các phát ngôn trên không ứng với những nghĩa mà TĐTV đã nêu: nó không chia sẻ những khái niệm như “liên tiếp”, “nhiều lần”, “không ngừng”, “liền ngay tức thời”, “suốt từ đó về sau là như thế”.
     Ở (11), hành động “đưa con” cũng thống nhất với hành động “đưa anh hai”, tạo thành một quá trình nhất thể. Ở (12), người đưa con cũng là người rước con: hành động “rước” của “ba” cũng thống nhất với hành động “đưa” (chứ không phải là đồng thời). Tính nhất thể của hai hành động này dựa trên cơ sở thống nhất chủ thể (đều có chủ thể là “ba”), khác với trường hợp trước – cơ sở thống nhất là hành động (một hành động thực hiện trên hai đối tượng). Ở (13), cơ sở thống nhất cũng là hành động: hành động “tự múc ăn” (và “ngồi bàn (luôn)”, ăn chung (luôn)”) là một quá trình nhất thể, diễn ra theo một hướng duy nhất, không có sự ngắt quãng hay can thiệp của bất kỳ nhân tố nào khác, và cũng không liên tục với bất cứ hành động nào trước hay sau nó. “Ngồi bàn (luôn)” và “ăn chung (luôn)” cũng tương tự.
    Với cách hiểu như trên, những phát ngôn kiểu “Nó được nghỉ bốn ngày luôn” thì cũng giống như “Nó ăn một con gà luôn”, đều có nghĩa là “nghỉ” hay “ăn” là một quá trình thống nhất, một chiều (vốn không thể giải thích trong khuôn khổ định nghĩa của TĐTV). Hay nói cách khác, trên trục thời gian, “bốn ngày nghỉ” hay “một con gà” được “xử lý” thống nhất trong một quá trình nhất thể.
Tất nhiên, trong hai phát ngôn trên có một nghĩa tình thái chủ quan (người nói cho rằng như thế là nhiều, lớn, hay toàn bộ) mà luôn góp phần thể hiện tuy chưa được TĐTV ghi nhận. Thực ra, theo nhận xét của chúng tôi, ý nghĩa tình thái bổ sung đó không thể tách rời khỏi ngữ điệu nhấn nhá, kéo dài có chủ ý của người nói. (Phải chăng chính vì đặc trưng khẩu ngữ và phương ngữ này mà biểu hiện vừa nói của luôn chưa được ghi nhận?). Hơn nữa, ý nghĩa tình thái đó hoàn toàn có thể xem là do tính nhất thể của luôn tạo ra.([1]) Tương tự như tương quan giữa luônngay, liền, liên tiếp, hẳn, v.v. ở các trường hợp khác: “ăn một con gà” và “được nghỉ bốn ngày” trong một quá trình duy nhất thì cũng có thể xem là nhiều! Với nghĩa tình thái nhiều, toàn bộ, hai ví dụ vừa đề cập hoàn toàn có thể thay bằng các yếu tố như “cả”, “nguyên”, v.v.: “Nó được nghỉ nguyên/cả bốn ngày”, “Nó ăn nguyên/cả một con gà” – tất nhiên, tính nhất thể của quá trình lúc này không còn nữa.
    Cũng cần nói thêm rằng phạm vi tác động của luôn có thể khác nhau, tùy vào vị trí của nó, nhưng nội dung cơ bản của câu vẫn không thay đổi: “Nó được nghỉ luôn bốn ngày” và “Nó ăn luôn một con gà”. 

4.   Những điều vừa trình bày trên đây cũng hoàn toàn có thể ứng dụng để giải thích cho nét nghĩa 1 của TĐTV. Ví dụ:
(14) Tía nuôi tôi từ hôm ấy càng đâm ra ít nói, chẳng thiết gì công việc làm ăn, cứ bỏ nhà đi luôn. (ĐR)
(15) Tôi phải tự động viên mình luôn và chật vật lắm mới trèo lên tận ngọn một cây đước cao. (ĐR)
(16) Không, em cứ rờ ngực rờ mũi nó luôn. (HĐ)
Theo TĐTV, nghĩa 1 của luôn là “một cách lặp lại nhiều lần hoặc liên tiếp không ngớt” (các vị từ hoặc chuỗi vị từ “cứ”, “phải”, “bỏ nhà đi”, “động viên”, “rờ” không cho phép hiểu các câu trên theo nét nghĩa 4 của TĐTV). Tuy nhiên, “bỏ nhà đi” hai ba lần, “động viên” bốn năm lần, “rờ” bảy tám lần thì cũng chỉ là nhiều lần, hoặc liên tiếp. Khi đó, chúng ta có những hành động cụ thể và riêng rẽ diễn ra từng lần một, và bản thân những hành động ấy không làm thành một quá trình thống nhất, và cũng không thể diễn ra “đồng thời” trên trục thời gian. Nếu nhìn trong quan hệ với các trường hợp nêu ở phần trên, chúng tôi cho rằng sự có mặt của luôn đánh dấu một quá trình mà trong đó hoàn toàn có thể xem hành động “bỏ nhà đi”, “tự động viên mình”, “rờ ngực, rờ mũi nó” được biểu hiện như những sự tình thường trực, trong đó có sự luân phiên giữa “bỏ đi” và “không bỏ đi”, giữa “động viên” và “không động viên”, giữa “rờ” và “không rờ”, nhưng trong quá trình luân phiên ấy không có một sự tình nào khác xảy ra hay can thiệp, nghĩa là quá trình ấy là một quá trình nhất thể.
Từ đó, có thể đưa ra một giả định rằng chính tính chất thường trực (do luôn đánh dấu) của các hành động trong một phạm vi thời gian nhất định cho phép nhất thể hoá toàn bộ quá trình mà phát ngôn biểu hiện. Tính chất thường trực này có thể xem là một biểu hiện của tính chất không hoàn thành (imperfective). Ở (14), hành động “bỏ nhà đi” bắt đầu từ “hôm ấy”; ở (15) hành động “tự động viên” bắt đầu từ khi nhân vật “tôi” “cảm thấy tay chân mình bủn rủn, nhấc không muốn nổi”; ở (16), hành động “rờ ngực, rờ mũi” bắt đầu từ khi “thằng Bé” bị chặt đứt cánh tay. Và tất cả các hành động trên diễn ra thường trực và không có dấu hiệu nào cho biết là đã hoàn thành. Về mặt nhận thức có thể hình dung các phát ngôn trên như sau:
 
 Sơ đồ (a) cho thấy các hành động diễn ra rời rạc, riêng rẽ trên trục thời gian, tức là những trường hợp không được đánh dấu bằng luôn. Sơ đồ (b) cho thấy các hành động cũng diễn ra trên trục thời gian nhưng được tri nhận như trong cùng một quá trình (trong khuôn khổ của phần tô màu xám).
 Như vậy, nếu sử dụng thao tác diễn dịch, chúng ta cũng có thể thấy có vẻ như trong một số trường hợp ở những mục trên, các sự tình/hành động được đánh dấu bằng luôn cũng có tính chất thường trực như vừa nói. Thật ra, nếu xét thật nghiêm ngặt thì tình hình không phải là như vậy. Trong các ví dụ ở những mục trên, tính nhất thể của quá trình chỉ thể hiện trong một giới hạn nhất định, hay nói khác đi, sự tình được biểu thị ở các ví dụ đó là sự tình hoàn thành. Ở (1), sau khi viết bức thư thứ ba thì hành động viết kết thúc; ở (2), sau khi cốc thứ tư đầy thì lão không rót nữa; ở (6), việc “ở luôn trong này” chỉ thực hiện một lần, nghĩa là không có sự luân phiên giữa “ở” và “không ở”; ở (11) (12) (13) cũng vậy, việc đưa hay rước con, việc tự múc cơm ăn, việc ngồi chung bàn với bố mẹ không hề được xem là có tính lặp lại về mặt thời gian. Như vậy có thể nói rằng, tính chất thường trực là một biểu hiện riêng biệt của ngữ nghĩa quá trình nhất thể của luôn.
      Cần chú ý rằng trong các ví dụ ở mục 4, luôn đứng ở cuối phần vị ngữ, tác động đến toàn bộ phần vị ngữ; và có khả năng đảo vị: “luôn bỏ nhà đi”, “luôn tự động viên mình”, “luôn rờ ngực, rờ mũi nó”. Riêng với quan hệ này, khi đảo vị, luôn xuất hiện với tư cách là một vị từ tình thái đòi hỏi một vị từ hoặc một ngữ đoạn vị từ làm bổ ngữ cho nó. Tuy nhiên, thay đổi vị trí dẫn đến thay đổi ngữ pháp và sau đó là sự sai biệt nhất định về ngữ nghĩa. Có vẻ như tầm tác động của luôn mạnh nhất khi đứng trước làm vị từ tình thái. Khi đó, nó tạo ra một cái khung ngữ nghĩa quá trình nhất thể (và thường trực) cho toàn bộ ngữ đoạn theo sau. (Trong khi nó là một phụ ngữ bổ sung ý nghĩa nhất thể (và thường trực) nếu nó đứng ở cuối thành phần vị ngữ). Chính điều này giải thích lý do vì sao khi đi với các sự tình trạng thái (biết, yêu, nhớ v.v.), tư thế (ở, giữ, ngồi, v.v.), quá trình (đổ, ngã, cháy, v.v),  vị trí trước vị từ của luôn có vẻ tự nhiên hơn. Chẳng hạn, xét hai ví dụ:
(17) Đồng bào ta ở miền Bắc luôn hướng về miền Nam anh hùng, luôn hướng về miền Nam thành đồng Tổ quốc! (HĐ)
(18) Trong gia đình cũng như trong anh em đồng chí, chị luôn nhường phần mình. (HĐ)
Ở (17) hướng biểu thị một trạng thái tinh thần, có nghĩa tương tự như “nhớ”, “nghĩ”, “quan tâm”, do vậy vị trí trước vị từ là thoả đáng. Ở (18), nhường có thể hiểu là một vị từ hành động (nhường X cho A, nhường Y cho B, nhường Z cho C) nên luôn có thể đứng sau thành phần vị ngữ. Tuy nhiên, ngữ cảnh của câu cho thấy nhường không phải là một hành động như thế mà nhường được biểu hiện như một “thuộc tính” của chị Sứ, do vậy vị trí trước vị từ của luôn tự nhiên hơn.
      Tương tự, “Anh luôn yêu em, luôn nhớ đến em” chắc chắn tự nhiên hơn là “Anh yêu em luôn, nhớ đến em luôn”; “Tôi luôn ngủ trước 12 giờ”, “Tôi luôn dị ứng khi ăn tôm” chắc chắn tự nhiên hơn “Tôi ngủ trước 12 giờ luôn”, “Tôi dị ứng khi ăn tôm luôn”, v.v.. (Nếu tiến hành đảo vị luôn ở một số ví dụ trong các mục trước, chúng ta cũng thấy được những biểu hiện tương tự: ở (1) (2) (3) (4) chẳng hạn, khi luôn đứng trước vị từ chúng ta sẽ có những sự tình thường trực, “luôn viết ba bức thư” nghĩa là mỗi lần viết chắc chắn người viết sẽ viết ba bức).
Ngoài ra, với biểu hiện ngữ nghĩa vừa nói, luôn có thể hành chức trong một ngữ đoạn mang tính thành ngữ như luôn miệng, luôn tay, chẳng hạn:
(19) Tôi phải suỵt suỵt luôn mồm, nó mới chịu im.
(20) Thằng bé nhà anh ở đám trẻ chăn trâu kia kìa. Nó luôn mồm nhắc bố đấy. (ĐT)
Riêng hiện tượng lặp từ (luôn luôn) đa số xuất hiện ở vị trí trước vị từ.([2]) Ví dụ:
(21) Hắn uống hai cốc rượu liền, uống vội vàng, xong lại xé mực nhai nhóc nhách, mắt luôn luôn ngó ra cửa. (ĐR)
(22) Mắt hắn luôn luôn nhìn vào cốc rượu, dường như người đăm chiêu nghĩ ngợi, hoặc có một tâm sự đau buồn gì. (ĐR)
(23) Ông luôn luôn là người đi trước tiên trong mọi công việc ông nghĩ ra. (ĐT)
(24) Họ luôn luôn tìm sức mạnh trong cái yếu đuối của họ. (ĐT)
Về tổ hợp này, chúng tôi cũng cho rằng nó là một biểu hiện của luôn. Chính nghĩa biểu hiện quá trình nhất thể (và thường trực) của luôn đã làm cho luôn luôn có thể được sử dụng như một tác tố biểu thị tần suất cao (thường được xếp trong loạt thường, thường xuyên, thỉnh thoảng, v.v.)([3]). Nghĩa tần suất của nó chỉ là hệ quả của nghĩa gốc.

5.   Xét ví dụ sau:
(25) Nói xong, làm luôn. (TĐTV)
      Đây là nét nghĩa 3 của TĐTV: “liền ngay tức thời (sau sự việc có liên quan)”. Về mặt thời gian, quả thật hành động do luôn đánh dấu (hành động thứ hai) xảy ra liền sau hành động thứ nhất. Các ví dụ sau có vẻ như cũng có biểu hiện tương tự:
(26) Năm Nhớ uống xong, dụm chân ngồi giữa dòng nước tắm luôn. (HĐ)
(27) Say máu, nó gừ lên, vồ luôn con chuột bạn của nó, gã truyền đạo không kịp đối phó thì con chuột đã nằm gọn trong vuốt nó. (CA)
(28) Sắp bắn, bọn chúng thấy tiếc cái bộ quần áo của cán bộ. Cởi áo thì phải mở trói. Vừa mở trói xong, thừa cơ, anh cán bộ dùng võ thuật quật một thằng, cướp luôn súng, nổ liền mấy phát rồi lao vào rừng rậm trầm mình dưới con suối. (DC)
(29) Lúc Xuân Hoa bưng trái cây lên, Bác Ái ngồi mắt thì ngó dĩa mận với dĩa quít mà lại thấy luôn hai bàn tay của Xuân Hoa trắng trong, hai cườm tay tròn vình. (MCT)
(30) Thấy bầy vịt chết, không nói không rằng, y cầm hai chân thằng con lẳng luôn xuống ao. (BM)
(31) Xuân Hoa đội khăn ngồi gần đó, mặt ngó xuống sông dường như ai cắt ruột bầm gan. Cô muốn nhào luôn xuống sông chết cho rồi. (MCT)
(32) Tôi đoán rằng tía nuôi tôi dắt tôi đi phục kích bắn giặc; ông đã gọi tôi theo, hẳn là ông tin cậy tôi hơn thằng Cò. Bụng mừng rơn, tôi nói luôn: - Tía đưa cho con cái dao găm! (ĐR)
     Tuy nhiên, theo chúng tôi, sự tình diễn ra liền sau như vậy chưa đủ để khẳng định rằng luôn biểu hiện nghĩa “liền ngay tức thời”, hoặc nếu có thì đây không phải là nét nghĩa trội của luôn. Cứ thử thay thế luôn trong các câu trên bằng một trong các hình thức “tương đương” với nó như liền, ngay thì sẽ thấy có một khác biệt rất lớn về ý nghĩa: “Năm Nhớ uống xong… tắm ngay”, “Say máu, …, nó vồ ngay con chuột bạn của nó”, “thừa cơ, anh ... quật một thằng, cướp ngay súng”, v.v.. Rõ ràng trong các ví dụ trên, sự có mặt của luôn đã đánh dấu quan hệ liên tục của vị từ mà nó tác động với các vị từ khác (trong cùng một phát ngôn hoặc trong phát ngôn trước đó), tạo thành một quá trình nhất thể.
       Chẳng hạn, ở (26) sự tình “uống” và sự tình “tắm” là thuộc cùng một quá trình; ở (27) sự tình “vồ con chuột bạn của nó” nằm trong quan hệ thống nhất với hành động “vồ” con chuột lạ diễn ra trước đó; ở (28) hành động “cướp súng” nằm trong quan hệ thống nhất với hành động “quật một thằng”; ở (29) sự tình “thấy hai bàn tay của Xuân Hoa” nằm trong quá trình “ngó dĩa mận với dĩa quít”, v.v..
        Có thể hình dung các quá trình qua sơ đồ sau:

 Sơ đồ 2: (a) và (b) biểu thị 2 hành động nối tiếp nhau, có khoảng cách thời gian (a) hoặc không (b): “uống xong, tắm ngay”. Trong khi đó, (c) và (d) biểu thị 2 hành động được tri nhận như trong cùng một quá trình (tượng trưng bằng khung lớn màu xám) cho dù các hành động đó có khoảng cách thời gian (c) hay không (d): “uống xong, tắm luôn”. (Chú thích: chúng tôi sơ đồ hoá 2 hành động bằng 2 khối màu đen thay vì 2 gạch thẳng đứng để có thể dễ hình dung tính chất quá trình của nó).
     Trong những câu có hai hoặc hơn hai vị từ, trật tự thời gian của các hành động/sự tình trong những trường hợp này cũng mang tính chất tuyến tính, nghĩa là có trước có sau, không có sự đứt đoạn – chính vì vậy mà nó được diễn giải là “liền ngay tức thời”. Cũng cần nói thêm rằng, có những phát ngôn mà các hành động/sự tình trong đó không tất yếu có quan hệ tuyến tính như vậy trong thực tế, tức là khó có thể nói đến sự “liền ngay tức thời”, chẳng hạn:
(33) Lúc này càng không phải là đẩy mạnh khai thác tài nguyên đem bán và bán luôn cả môi trường, qua đó rào chắn con đường dẫn tới nền kinh tế dịch vụ, kinh tế tri thức! (Báo TT)
(34) Vân hái chậm, Nguyên hái nhanh nên lúc nào cũng vậy, hái phần nhà mình, Nguyên thường phải hái luôn cho cả phần nhà Vân nữa. (BM)
Trong (33), khó có thể xác lập quan hệ trật tự thời gian giữ việc “bán tài nguyên” và “bán luôn môi trường”, mà đúng hơn, “bán tài nguyên” chính là “bán môi trường”. Tương tự, trong (34) khó có thể cả quyết rằng sau khi “hái phần nhà mình” xong Nguyên mới “hái” “phần nhà Vân”, mà hoàn toàn có thể cho rằng trong thực tế Nguyên đã “hái” một lần cho cả hai nhà (xem mục 1 ở trên, đặc biệt là vd (4) (5)).
Vì vậy, có thể nói, trên hết vẫn là tính chất nhất thể của chuỗi hành động/sự tình được diễn đạt bằng chuỗi vị từ có mặt trong câu, hoặc vượt ra ngoài phạm vi câu (i.e hành động/sự tình sau thống nhất với hành động/sự tình được diễn đạt trong câu trước đó, vd (27) và (31)). Theo suy nghĩ của chúng tôi, đây chính là điểm chủ yếu trong ngữ nghĩa của luôn ở trường hợp này. Có thể cho rằng các sự tình được diễn đạt bằng các tiểu cú đứng trước, hoặc bằng các câu đi trước tạo thành một khung cảnh huống cho sự tình được đánh dấu bằng luôn; hay nói cách khác, hành động/sự tình được đánh dấu bằng luôn diễn ra trên cái nền hành động/sự tình đã được diễn đạt trước đó. Và đây chính là cơ sở hình thành một quá trình nhất thể mà cấu trúc “V + luôn” tham gia.
     Cách lý giải này cho phép giải thích các trường hợp mà trong đó không hiển ngôn một hành động hay sự tình nào làm nền cho “V + luôn” cả. Khi đó, chúng tôi cho rằng cái cảnh huống hiện tại vào thời điểm phát ngôn (bây giờ, ở đây) sẽ thống nhất với hành động/sự tình được đánh dấu bằng luôn tạo thành một quá trình nhất thể. Chẳng hạn các ví dụ sau đây:
(35) (– Bữa nào lớp cũ mình gặp nhau một bữa đi!) – Ừ, tính luôn đi! Tính luôn bữa nay đi! (ghi âm)
(36) Uống cà phê không? Uống luôn đây được không? (ghi âm)
(37) Dượng Ba hả? Ừ, dượng ba vui lắm. Mắc cười lắm. Dượng ba tới luôn bây giờ nè! (ghi âm)
(38) (Ông nhớ uống thuốc đúng giờ. Thuốc để sẵn ở đầu giường của ông, ông cũng cần ăn để mau lại sức). - Nếu có thể, cô làm ơn cho tôi uống luôn đi. (Quỳnh Dao, “Vòng tay kỷ niệm”, Liêu Quốc Nhĩ dịch, Nxb Tp.HCM, 2000)
Như vậy, có thể nói sự có mặt của luôn đã làm cho cái sự tình đóng vai trò khung thời gian/cảnh huống cùng với cái sự tình diễn ra trong cái khung thời gian/cảnh huống ấy trở thành một quá trình nhất thể.

6.  Luôn là tác tố đánh dấu các sự tình/hành động mà người nói nhận thức như là một quá trình nhất thể. Và khi tiếp nhận một phát ngôn có luôn, người nghe bao giờ cũng có thể nhận biết rành mạch cái dấu hiệu đi kèm đó, trên cơ sở những chọn lựa quan yếu (relevance selections). Tuy nhiên, điều chúng tôi muốn đề cập là trên cái nền ngữ nghĩa cơ sở của luôn hầu như tất cả các biểu hiện cụ thể khác nhau đều có ẩn chứa một khả năng đối lập [-luôn]. Và đây chính là một thế đối lập có thể giúp hiển ngôn hóa ngữ nghĩa cơ sở của luôn.
      Như vậy, trong quá trình dạy tiếng hoặc khi cần giải nghĩa cái nội dung mà luôn đánh dấu, chúng tôi thiết nghĩ có thể dựa vào thế đối lập này để xây dựng một cơ chế tương đối thuần nhất: {[V+luôn] thay vì/chứ không phải là X}; trong đó X là khả năng đối lập [-luôn]. Chẳng hạn:
(1) Viết luôn ba bức thư → (...) chứ không phải chỉ viết một bức hoặc viết từng bức.
(3) ọe luôn mấy cái → (...) chứ không phải chỉ ọe một cái
(5) trả tiền luôn 2 cái xe → (...) chứ không phải chỉ trả tiền một cái xe
(6) ở luôn trong này → (...) chứ không phải trở ra Hà Nội
(9) cắt luôn cơn sốt → (...) chứ không phải chỉ giảm sốt
(10) thiếp luôn → (...) chứ không phải chỉ thiếp đi một lúc
(11) đưa anh luôn → (...) chứ không phải chỉ đưa con
(12) ba (rước) luôn → (...) chứ không phải người khác rước
(13) tự múc ăn luôn → (...) chứ không phải có người đút
(14) bỏ nhà đi luôn  → (...) chứ không phải chỉ bỏ đi một vài lần
(15) động viên mình luôn  → (...) chứ không phải động viên một vài lần
(16) rờ mũi rờ ngực nó luôn → (...) chứ không phải chỉ rờ một vài lần
(25) nói xong làm luôn → (...) chứ không phải chờ đợi hoặc chỉ nói thôi
(26) uống xong tắm luôn → (...) chứ không suy nghĩ hoặc chờ đợi hoặc lo lắng gì cả
– nghỉ 4 ngày luôn → (...) chứ không phải chỉ nghỉ một ngày
– ăn một con gà luôn → (...) chứ không phải chỉ ăn một phần
Ngay cả trường hợp luôn đứng trước vị từ vẫn có thể diễn giải tương tự:
(17) luôn hướng về miền Nam → (...) chứ không phải chỉ hướng vài lần hay trong thời gian ngắn
(18) luôn nhường phần mình → (...) chứ không phải chỉ nhường đôi lần, hoặc nhường tùy hứng
Thật ra, theo chúng tôi, cơ chế này là một kiểu giải nghĩa bằng hình thức phủ định, không phản ánh đúng bản chất ngữ nghĩa của luôn. Tuy nhiên, nó có thể giúp hình dung dụng ý của người nói khi dùng luôn. Vì vậy, sử dụng một cơ chế đối lập như trên cũng có thể xem là một cách làm khả dĩ.
 
Kết luận:                                                                    
Từ những phân tích trên đây về luôn, chúng tôi tạm thời đi đến nhận xét rằng luôn là một tác tố có vai trò gắn kết các hành động/sự tình được diễn đạt trong phát ngôn thành một quá trình nhất thể. Đó là một chọn lựa mang tính nhận thức của người nói. Các biểu hiện gần gũi như tính liên tục, liền tức thì, mãi mãi, v.v., chỉ là những biểu hiện phái sinh, là sự diễn giải (interpretation) về phía người nghe.
Quá trình nhất thể do luôn diễn đạt có thể hình thành trên cơ sở thống nhất chủ thể, hành động, đối tượng, thời gian, hoặc không gian. Trong một quá trình nhất thể có thể có những sự tình/hành động diễn ra thường trực hoặc không thường trực, liên quan đến tính hoàn thành hay không hoàn thành của sự tình/hành động mà vị từ biểu thị.
Có thể nhận thấy rằng, về mặt nhận thức, nếu đặt luôn trong quan hệ với những ngữ đoạn (thường xuất hiện trong khẩu ngữ tự nhiên) như “chuyên/chuyên môn + V”, “lúc nào/bao giờ cũng + V”, “ai nấy đều + V”, “ai mà chẳng + V”, “cái gì cũng + V”, v.v., có thể thấy luôn có vẻ cũng là một phương tiện thể hiện thói quen khái quát hoá, đồng nhất hoá của người Việt trong quá trình sử dụng ngôn ngữ.

Tài liệu tham khảo chính:
1.      Hoàng Trọng Phiến, 2003, Cách dùng hư từ tiếng Việt, Nxb Nghệ An.
2.      Langacker R.W., 1987, Foundations of Cognitive Grammar, Vol.1, Stanford University Press, California.
3.      Lý Toàn Thắng, 2005, Ngôn ngữ học tri nhận – từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt, Nxb KHXH, H.
4.      Hoàng Phê CB, 1995, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học XB.
5.      Nguyễn Đức Tồn, 2002, Tìm hiểu đặc trưng văn hóa-dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H..
6.      Wierzbicka Anna, 1996, Semantics Primes and Universals, Oxford University Press, NY.
Ngữ liệu:
1.      Anh Đức, “Hòn đất”, (internet), viết tắt (HĐ)
2.      Hồ Biểu Chánh, “Một chữ tình”, Nxb Tổng hợp Tiền Giang, 1988, viết tắt (MCT).
3.      Đoàn Giỏi, “Đất rừng phương Nam”, (internet), viết tắt (ĐR).
4.      Lê Lựu, “Đại tá không biết đùa”, (internet), viết tắt: (ĐT).
5.      Nam Cao, “Truyện ngắn Nam Cao”, Nxb Đà Nẵng.
6.      Ngô Xuân Hội, “Bình minh không tiếng chim”, Nxb Hội nhà văn, H., 2000., viết tắt (BM).
7.      Nguyễn Quang Sáng, “Cái áo thằng hình rơm”, (internet), viết tắt (CA)
8.      Nguyễn Quang Sáng, “Dân chơi”, (internet), viết tắt (DC)



([1])  Trong các ví dụ sau đây, các từ in nghiêng cũng có khả năng phái sinh nghĩa tình thái tương tự:
(a)     Nó hát ba bài liên tiếp
(b)     Anh đọc mãi (mà vẫn không hiểu)
(c)     Nghe xong nó trả lời ngay
Có thể thấy ở (a) liên tiếp có nghĩa tình thái phái sinh là “nhiều”; ở (b) mãi có nghĩa tình thái phái sinh là “lâu” hoặc “nhiều lần”; ở (c) ngay có nghĩa tình thái phái sinh là “nhanh”.
([2])  Thống kê từ 8 tài liệu - danh sách ở cuối bài viết - chúng tôi ghi nhận có 41 trường hợp dùng luôn luôn, trong đó 2 trường hợp dùng ở đầu câu, 33 trường hợp dùng ở trước vị từ, và 6 trường hợp dùng ở sau vị từ (Hồ Biểu Chánh dùng 2 lần, Nam Cao dùng 3 lần, Lê Lựu dùng 1 lần).
([3])  Do thuộc tính của vị từ, cũng cần thấy rằng “Anh luôn luôn yêu em” thì gần nghĩa với “Anh yêu em mãi”; trong khi đó “Anh sẽ luôn luôn nhắn tin cho em” thì gần nghĩa với “Anh sẽ thường xuyên nhắn tin cho em”.

No comments:

Post a Comment