Thursday 17 July 2014

BIẾN THỂ CÚ PHÁP CỦA CÂU QUAN HỆ VÀ VIỆC DẠY TIẾNG


1. Đặt vấn đề
Khi biểu hiện một sự tình, do ảnh hưởng của nhiều nhân tố, người nói có thể chọn một trong nhiều hình thức diễn đạt khác nhau. Những hình thức khác nhau này thường được gọi chung là các biến thể cú pháp (syntactic variants). Xét về mặt nội dung, biến thể cú pháp là những cách nhận định khác nhau của người nói về một sự tình dựa trên những khác biệt về cách thức tổ chức câu.
Người nước ngoài, do khả năng hạn chế về các mô hình cú pháp được học, thường đặt sai tiêu điểm thông tin (làm văn bản thiếu mạch lạc hay hội thoại thiếu liên tục), hoặc tạo lập những phát ngôn kém tự nhiên vì chỉ dựa trên những cấu trúc quen thuộc (với họ). Đôi khi một phát ngôn đúng ngữ pháp lại tỏ ra không đạt yêu cầu giao tiếp, vì người bản ngữ cảm thấy khó hiểu – đó không phải là một câu mà họ chờ đợi được nghe.
Vì vậy, trong quá trình dạy tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai, cần cung cấp các biến thể cú pháp khác nhau để người học có thể chọn lựa sao cho phù hợp với tình huống đối thoại hoặc phù hợp với sự mạch lạc của văn bản.
Mục đích của bài viết này là trình bày những thao tác xây dựng các biến thể cú pháp để từ đó giáo viên dạy tiếng có thể ứng dụng vào việc thiết kế các bài học tiếng Việt.
2. Về khái niệm câu quan hệ
Căn cứ vào các đối lập [±động], [±chủ ý] và [±nội tại], Cao Xuân Hạo đưa ra một hệ thống gồm ba loại câu mà ông gọi là ‘nghĩa biểu hiện của khung vị ngữ’: câu chỉ sự tồn tại, câu chỉ sự tình động và câu chỉ sự tình tĩnh. Mỗi loại bao gồm nhiều tiểu loại, tuỳ vào nội dung biểu hiện của nó.
    Riêng loại câu chỉ sự tình tĩnh, có thể phân biệt 2 loại lớn: câu trạng thái và câu quan hệ. Loại thứ hai là đối tượng mà bài viết này muốn đề cập đến.
Theo Cao Xuân Hạo, “Câu quan hệ là câu biểu hiện quan hệ giữa hai sự vật. Quan hệ là một tình hình mà nội dung là một cái gì đó ở giữa hai sự vật, dù đó là một sự tiếp xúc, một khoảng cách, một mối dây nhân quả hay một sự so sánh” [2, 232].
Theo ngữ pháp kinh nghiệm của Halliday, quá trình quan hệ (relational processes) là một trong ba quá trình chính, bên cạnh quá trình vật chất, quá trình tinh thần. Một quan hệ bao giờ cũng được hình thành giữa hai thực thể phân lập, vì vậy các cú quan hệ thể hiện “một cái gì đó được nói ‘là’ một cái gì đó khác”[3, 119]. Hay nói rõ hơn, về nguyên tắc, quá trình quan hệ bao gồm các thành tố: (1) quan hệ (nội dung cốt lõi sự tình hay là bản thân quá trình); (2) hai tham thể quan hệ (các yếu tố tham gia sự tình, làm nên sự tình); (và ở các quá trình nói chung, có thể có một vài thành tố chu cảnh).[3, 107]
Như vậy về cấu trúc, câu quan hệ tối giản sẽ có hai tham thể và một “lõi” sự tình quan hệ. Trong ví dụ sau:
(1)    a. Cô ấy cao hơn tôi. (so sánh)
b. Ngôi nhà đó của tôi. (sở hữu)
tham thể là cô ấy / tôi, ngôi nhà đó / tôi; tác tố sự tình quan hệ là cao hơn, của.
Hai tham thể được biểu thị bằng một ngữ danh từ (danh ngữ); “lõi” quan hệ có thể được biểu thị bằng một vị từ, một hệ từ (), và trong nhiều trường hợp là một kết cấu vị ngữ có kích thước lớn hơn một vị từ (chẳng hạn đẹp không bằng trong “Cô ấy đẹp không bằng tôi”) – từ đây chúng tôi sẽ gọi chung là vị tố quan hệ.
Chính do tính chất tương đối thuần nhất về cấu trúc của sự tình quan hệ, chúng tôi chọn loại câu này để khảo sát khả năng hình thành biến thể cú pháp của nó. Sau đây chúng tôi sẽ khảo sát lần lượt các kiểu sự tình quan hệ khác nhau trong sự hình thành biến thể cú pháp.
3. Biến thể cú pháp của câu quan hệ
Biến thể cú pháp thường được dùng để chỉ các biến thể đồng nghĩa của một kết cấu cú pháp nhất định nhưng khác nhau về các đặc điểm cú pháp bề mặt và sắc thái dụng học.([1]) Tuy nhiên, trong một ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt, một biến thể cú pháp có thể được nhận diện ở sự thay đổi cương vị ngữ pháp của các thành tố trong khung ngữ nghĩa của cấu trúc vị ngữ (thể hiện ở bề mặt là sự hoán vị và sự thiết lập các Đề khác nhau của câu), ở sự thay đổi các tác tố tình thái, ở cách tái tổ chức ngữ nghĩa câu (liên quan đến các yếu tố ngữ pháp khung). Như vậy, có thể dự đoán rằng một biến thể cú pháp bao giờ cũng có sự chuyển nghĩa nhất định so với dạng thức ban đầu của nó; mức độ đơn giản nhất của sự chuyển nghĩa đó là sự chuyển đổi tiêu điểm thông tin (chẳng hạn thay đổi Đề) nhưng không thay đổi nghĩa biểu hiện, và ở mức độ cao thậm chí ta có một cấu trúc với nghĩa biểu hiện khác hẳn (chẳng hạn một sự tình tĩnh trở thành một sự tình động).
Ở đây, vì mục đích ứng dụng, chúng tôi đề cập đến sự hình thành các biến thể cú pháp với nhiều mức độ khác nhau, dựa trên các yếu tố của cấu trúc khung vị ngữ ban đầu – nghĩa là có thể sẽ có những biến thể mang một đặc trưng mới về nghĩa biểu hiện: câu quan hệ trở thành câu trạng thái hay câu hành động (và ngược lại), yếu tố chu cảnh trở thành Đề, yếu tố trang trí trở thành tiêu điểm thông tin, v.v..
3.1. Quan hệ đồng nhất
            Loại câu này có mô hình cơ bản là A là B, A đồng nhất với B, với biến thể sau:
(2)   a. Hà Nội là thủ đô của Việt Nam.
           b. Thủ đô của Việt Nam là Hà Nội.
           c. Từ không đồng nhất với hình vị.
           d. Hình vị không đồng nhất với từ.
Thao tác thực hiện biến thể ở vd (2) rất đơn giản, chỉ cần hoán vị hai tham thể ta có hai biến thể khác nhau ở phần Đề; và hầu hết các câu quan hệ đồng nhất đều có tính chất này. Tuy nhiên, có những trường hợp khả năng này bị giới hạn: khi hai tham thể có quan hệ thượng danh - hạ danh, tổng thể - bộ phận, thực thể - chất liệu; chẳng hạn:
(3)    a. Hổ là động vật ăn thịt.
b. ?Động vật ăn thịt là hổ.
c. Cô Lan là giáo viên trường này.
d. ?Giáo viên trường này là cô Lan.
e. Đồ đạc trong nhà này là gỗ thông.
f. *Gỗ thông là đồ đạc trong nhà này.
   Về mặt logic, giới hạn vừa nói có tính xuyên ngôn ngữ (cross-language) cho nên không gây ra khó khăn cho người học. Nhưng trong thực tế sử dụng, các cấu trúc (3b, d) vẫn có thể xuất hiện với hai điều kiện: (i) ngữ cảnh (chẳng hạn để xác định ‘động vật ăn thịt’ trong năm loài thú được đưa ra để hỏi), và (ii) mức độ xác định của phần Đề (yêu cầu này xuất phát từ bản chất ngữ pháp của Đề [2, 93-94], dựa vào những yếu tố đi kèm: định ngữ, trạng ngữ, và tất nhiên, cả ngữ cảnh). Ví dụ:
(4)   a. Động vật ăn thịt khỏe nhất là hổ.
b. Giáo viên nữ duy nhất của trường này là cô Lan.
Riêng với loại quan hệ đồng nhất kiểu (3f) thì cần thu hẹp (trực tiếp hoặc gián tiếp) phạm vi của tham thể đứng sau:
(5)    a. Gỗ thông là nguyên liệu của đồ đạc trong nhà này.
b. Gỗ thông là nguyên liệu làm (nên) đồ đạc trong nhà này.
            Với những câu quan hệ trong đó một trong hai tham thể có cấu trúc danh ngữ phức tạp hơn (có một hay nhiều định ngữ, đặc biệt khi những định ngữ đó là một cấu trúc có thuyết tính - tức là một tiểu cú) thì khả năng hình thành biến thể rộng hơn nhiều, và có thể dẫn đến một kiểu nghĩa biểu hiện khác. Xét các câu sau:
(6)   a. Anh Tâm là người mà bạn bè quí mến.
           b. Người mà bạn bè quí mến là anh Tâm.
           c. Bạn bè quí mến anh Tâm.
(7)    a. Điều quan tâm lớn nhất của ông là giáo dục thanh niên.
b. Giáo dục thanh niên là điều quan tâm lớn nhất của ông.
c. Giáo dục thanh niên là điều ông quan tâm nhất.
d. Ông quan tâm nhất đến việc giáo dục thanh niên.
(6c) và (7d) là hai câu trạng thái chứ không còn là quan hệ nữa. Và cũng cần chú ý, ở (7b) và (7c) thành phần định ngữ cho điều có cấu trúc khác nhau, nghĩa là ta có một biến thể cú pháp khác biệt ở bậc cấu trúc ngữ đoạn chứ không phải ở bậc câu.
Tất nhiên, về lý thuyết, từ cấu trúc của một sự tình nào đó (hành động, quá trình, trạng thái) có thể hình thành một cấu trúc quan hệ đồng nhất. Để có một cấu trúc như vậy, bên cạnh hoán vị, thao tác danh hóa một thành phần ở bậc câu hoặc dưới câu (vị từ, định ngữ) là hết sức cần thiết nhằm bảo đảm ‘lõi’ quan hệ có được hai tham thể trong khung vị ngữ.
Xét các câu sau:
(8)   a. Cô ấy vẽ bức tranh này. (hành động)
b. Người vẽ bức tranh này là cô ấy.
c. Bức tranh này là tác phẩm của cô ấy.
d. Cô ấy là tác giả bức tranh này.
(9)    a. Nó chơi bóng đá rất giỏi. (trạng thái)
b. Cái giỏi / Sở trường của nó là bóng đá.
c. Bóng đá là sở trường của nó.
     Ở (8b) vị từ biểu thị hành động vẽ đã được danh hóa thành tác nhân thực hiện hành động người vẽ; ở (9b, c) trạng ngữ cách thức rất giỏi đã được sự vật hóa (cũng có nghĩa là danh hóa) thành một danh ngữ biểu thị năng lực, thuộc tính cái giỏi, sở trường.
3.2. Quan hệ so sánh
          Loại câu này gồm có các mô hình cơ bản sau: A hơn B, A bằng B, A giống/ như / giống như B, A khác B. Chúng ta lần lượt xét các biến thể của nó.
(10)  a. Anh Nam hơn anh Bắc.
b. Anh Bắc thua (/ kém/ không bằng) anh Nam.
Để thực hiện biến thể so sánh, thao tác đơn giản nhất là hoán vị hai tham thể.
Về mặt nhận thức, hai thực thể được đưa ra so sánh là hai thực thể riêng biệt và thường là không đồng nhất ở một bình diện nhất định hoặc bất bình đẳng ở một thuộc tính nhất định (các khác biệt và mức độ khác biệt này là cơ sở logic - ngữ nghĩa của quan hệ so sánh). Khi cái được so sánh và cái so sánh có sự chênh lệch hơn-kém thì việc hoán vị (thực chất là chuyển vai trò: cái được so sánh trở thành cái so sánh và ngược lại) đòi hỏi vị từ so sánh phải được đảo nghĩa (converse) (hơn ® kém/ thua/ không bằng).
Ngoài ra, so sánh hai thực thể phân lập trong không gian bao giờ cũng là so sánh mức độ của cùng một thuộc tính hoặc so sánh biểu hiện của cùng một bình diện (ở vd (10) người nói và người nghe xem như đã biết thuộc tính hay bình diện được so sánh, nếu không sự so sánh sẽ không có ý nghĩa). Hay nói cách khác, quan hệ so sánh thường được biểu hiện bằng một vị tố quan hệ (vd: xấu hơn, tốt không bằng, giống về kiểu dáng, tốt hơn về chất lượng) chứ không chỉ là một vị từ đơn nhất (hơn, kém, giống, bằng). Chính cái thuộc tính hoặc bình diện được so sánh đó sẽ góp phần tạo ra các biến thể khác nhau. Ví dụ:
Ta có: Cô ấy giống mẹ       ® Cô ấy giống mẹ ở đôi mắt đẹp. Từ đó:
(11)  a. Đôi mắt đẹp của cô ấy giống đôi mắt đẹp của mẹ.
b. Đôi mắt (của) cô ấy đẹp giống mẹ.
c. Cái đẹp của đôi mắt cô ấy giống mẹ.
d. Chỗ giống nhau giữa cô ấy và mẹ là đôi mắt đẹp.
            Ta có: Nam giỏi hơn Hà ® Nam giỏi hơn Hà về khả năng nói tiếng Pháp. Từ đó:
(12)  a. Khả năng nói tiếng Pháp của Nam giỏi hơn (khả năng nói tiếng Pháp của) Hà.
b. (Khả năng nói) tiếng Pháp (thì) Nam giỏi hơn Hà.
c. (Khả năng nói) tiếng Pháp (thì) Hà không giỏi bằng Nam.
d. Cái Nam giỏi hơn Hà là (khả năng nói) tiếng Pháp.
e. Cái giỏi của Nam so với Hà là (khả năng nói) tiếng Pháp.
Như vậy, trong quan hệ so sánh, Đề hóa bình diện so sánh (11a, b) (12a, b, c) hoặc Đề hóa thuộc tính (sau khi danh hóa) (11c, d) (12d, e) sẽ tạo ra những biến thể khác nhau (chưa kể khả năng hoán vị).
Ngoài ra, khi hai tham thể so sánh và được so sánh cùng đóng vai trò Đề, sự có mặt của đại từ tương hỗ (reciprocal) nhau ở sau vị tố quan hệ là cần thiết.
(13)  a. Cách ăn mặc của Lan khác cách ăn mặc của Hà.
b. Lan khác Hà ở cách ăn mặc.
c. Lan và Hà khác nhau ở cách ăn mặc.
d. Cách ăn mặc của Lan và Hà khác nhau.
            Khi một trong hai danh ngữ tham thể có chứa đại từ phiếm chỉ ai, gì, đâu, nào hoặc dạng phủ định của nó (không ai, không gì, không đâu) ta sẽ có các biến thể với nội dung so sánh cực cấp. Ví dụ:
(14)  a. Không ai trong lớp khoẻ bằng anh ấy.
             b. Trong lớp, anh ấy khoẻ không bằng ai.
             c. Trong lớp, anh ấy khoẻ (/ yếu) hơn cả.
             d. Anh ấy khỏe (/ yếu) nhất (trong) lớp.
      Với kiểu so sánh này, sự có mặt của một trạng ngữ (khung đề) hoặc một định ngữ chỉ ra cái phạm vi giới hạn của toàn bộ thực thể so sánh là rất quan trọng (ở (14) là trong lớp).
Với một câu quan hệ so sánh chúng ta cũng có thể tạo ra một biến thể trạng thái hoặc một biến thể đồng nhất:
(15)  a. Đối với tôi, không gì quý bằng món quà này.
            b. Món quà này tôi quý nhất.            
c. Tôi quý món quà này nhất.
(16)  a. Không gì quý hơn độc lập, tự do.
             b. Độc lập, tự do là cái quý nhất.
             c. Cái quý nhất là độc lập, tự do.
Chú ý: Không phải câu quan hệ so sánh nào cũng đều có thể hoán vị hai tham thể, đặc biệt là những so sánh mang tính ẩn dụ (Lá phong đỏ như mối tình rực lửa không thể có biến thể Mối tình rực lửa đỏ như lá phong); và về mặt văn hoá, quan hệ tôn ti giữa hai thực thể so sánh đôi khi cũng quan trọng (ss. Con giống mẹ // ?Mẹ giống con).
            3.3. Quan hệ tương liên
Quan hệ tương liên gồm những mối quan hệ như quan hệ sở hữu, liên hệ thân thuộc, liên hệ xã hội, liên hệ vị trí.
– Câu chỉ quan hệ sở hữu có mô hình cơ bản: A (là) của B, A thuộc về B, A là chủ sở hữu của B.
(17)  a. Ngôi nhà này (là) của anh Nam.
b. Ngôi nhà này là sở hữu của anh Nam.
c. Ngôi nhà này thuộc về anh Nam.
d. Ngôi nhà này thuộc quyền sở hữu của anh Nam.
e. Anh Nam là chủ nhân của ngôi nhà này.
f. Quyền sở hữu ngôi nhà này thuộc về anh Nam.
Để có biến thể, chúng ta có thể chuyển đổi vị từ quan hệ sở hữu của thành các vị tố của, sở hữu của, thuộc về, thuộc quyền sở hữu, sở hữu chủ của; và/hoặc hoán vị hai tham thể; đôi khi có thể danh hóa quan hệ sở thuộc bằng cụm từ quyền sở hữu và đặt làm Đề (17f).
Khi trong quan hệ sở hữu có kèm theo quan hệ phân phối thì khả năng biến thể sẽ rộng hơn, đặc biệt, cấu trúc câu có thể tỉnh lược vị tố quan hệ, chỉ còn lại hai tham thể.
(18)  a. Trong tủ có hai cái áo. Cái màu xanh của anh, cái màu vàng của em.
b. Trong tủ có hai cái áo. Anh cái màu xanh, em cái màu vàng.([2])
Tất nhiên, cũng có thể có biến thể đồng nhất xuất phát từ quan hệ sở hữu:
(19)  a. Bức tranh này của cô Lan.
b. Bức tranh này là tài sản của cô Lan.
c. Cô Lan là người vẽ bức tranh này.
            Nói chung, một hành động sáng tạo (vẽ, chụp, viết, đóng, may, v.v.) hoặc một hành động trao đổi (mua, sắm, đổi, trao, v.v.) đều có thể dẫn đến sự sở hữu và được diễn đạt bằng một một cấu trúc sở hữu hoặc một cấu trúc đồng nhất.
– Câu chỉ liên hệ thân thuộc, liên hệ xã hội có mô hình cơ bản: A là cha/ con của B, A là thầy/ trò của B. Vị tố biểu thị quan hệ này có cấu trúc: cha của, là con của, là chủ của, là học trò của, v.v..
(20)  a. Cô Ba là mẹ em Nam.
b. Em Nam là con cô Ba.
c. Mẹ em Nam là cô Ba.
d. Cô Ba sinh ra em Nam
Về hình thức, loại câu này giống loại câu quan hệ đồng nhất. Tuy nhiên, nó phân biệt với loại quan hệ đồng nhất ở chỗ khi hoán vị tham thể chúng ta cần đến các từ đảo nghĩa trong trục quan hệ (mẹ - con, sếp - nhân viên, đàn anh - đàn em, bác sĩ - bệnh nhân, luật sư - thân chủ, v.v.).
Câu liên hệ có thể có biến thể là câu đồng nhất (20c) hoặc câu quá trình (20d). Tuy nhiên, có những mối liên hệ kèm theo nó là những hành động, quá trình nhất định. Thậm chí, từ những hành động, quá trình này mà người ta có thể suy ra mối liên hệ, ví dụ: A là thầy của B « A dạy B; A là thủ trưởng của B « A lãnh đạo/ quản lý B; A là chủ của B « A thuê B. Và cũng có những mối liên hệ khó chuyển thành hành động, quá trình như thế: A là chị của B « ?A sinh trước B/ ??A có quyền đối với B/ ??A chăm sóc B.
– Câu chỉ liên hệ vị trí có các mô hình cơ bản: A ở trong/ ngoài B, A ở dưới/trên B, A ở bên B, A ở gần/ xa B, A ở cách B....
(21)  a. Bộ quần áo ở trong cái ba lô.
b. (Ở) trong cái ba lô có (/ là) bộ quần áo.
c. Cái áo khoác đen ở ngoài cái sơ mi.
d. (Ở) ngoài cái sơ mi có (/ là) cái áo khoác đen.
(22)  a. Quyển từ điển ở dưới (/ trên) quyển tiểu thuyết.
b. (Ở) dưới (/ trên) quyển từ điển có (/ là) quyển tiểu thuyết.
(23)  a. Công viên Gia Định ở bên cạnh trường tôi.
b. Trường tôi ở bên cạnh công viên Gia Định.
c. (Ở) bên cạnh trường tôi có (/ là) công viên Gia Định.
Để thực hiện biến thể, khi hoán vị hai tham thể cần sử dụng các vị tố quan hệ đảo nghĩa (() trong - () ngoài, () trên – () dưới, () trước - () sau). Với các biến thể chứa vị từ , ta có câu tồn tại.
            Cần chú ý rằng, trong khi diễn đạt quan hệ vị trí, khả năng hoán vị sẽ bị hạn chế bởi những ràng buộc về mặt tri nhận: có thể nói ‘chiếc xe đạp ở trước nhà tôi’ chứ không thể nói ‘nhà tôi ở sau chiếc xe đạp’, có thể nói ‘con mèo nằm trên chiếc dép’ chứ không thể nói ‘chiếc dép nằm dưới con mèo’.
            Loại câu biểu thị liên hệ vị trí với vị tố quan hệ cách thường phải có tham thể thứ ba, đó là ‘khoảng cách’, đôi khi lại có cả tham thể ‘hướng’. Ví dụ:
(24)  a. Làng tôi (ở) cách làng anh ấy một con sông (/ 5 cây số).
             b. Làng anh ấy cách làng tôi một con sông (/ 5 cây số).
             c. Làng tôi và làng anh ấy cách nhau một con sông (/ 5 cây số).
             d. Làng tôi cách làng anh ấy 5 cây số về hướng đông.
            Khoảng cách có thể diễn đạt bằng một danh ngữ, một lượng ngữ, một giới ngữ. Và tham thể khoảng cách này có thể được đưa lên làm Đề, khi đó ta có một câu quan hệ tương tác, đồng nhất hoặc định lượng.
(25)  a. Con sông Trà ngăn cách làng tôi với làng anh ấy.
b. Năm cây số là khoảng cách từ làng tôi đến làng anh ấy.
c. Khoảng cách giữa làng tôi và làng anh ấy là 5km.
d. Cách làng tôi khoảng 5km về hướng đông là làng anh ấy.
e. Từ làng tôi qua một con sông là đến làng anh ấy.
            Khi trong cấu trúc vị tố quan hệ có một phụ ngữ (trạng ngữ cách thức) biểu thị mức độ ‘cách’, ta có các biến thể sau:
(26)  a. Làng tôi cách (không) xa làng của anh ấy.
             b. Làng của anh ấy cách làng tôi rất (/ hơi, khá, không) xa.
c. Làng tôi và làng anh ấy cách nhau rất (/ hơi, khá, không) xa.
d. Từ làng tôi đến làng anh ấy rất (/ hơi, khá, không) xa.
(Chú ý: Khi trạng ngữ được đặt sau tham thể thứ hai (26b, c, d), nó cần phải có một/ vài yếu tố phụ đi kèm).
Loại câu quan hệ đang nói đến biểu thị mối liên hệ về vị trí của một thực thể với một thực thể. Trong loại này, chúng tôi cũng kể luôn mối liên hệ vị trí giữa một thực thể không gian với một sự tình (mô hình: A là nơi xảy ra X) và sự định vị một sự tình (X diễn/ xảy ra ở A, X diễn/ xảy ra trong khoảng từ Y đến Z).
(27)  a. Ngôi nhà này là nơi xảy ra vụ án mạng.
b. Vụ án mạng xảy ra tại ngôi nhà này.
Mối liên hệ về vị trí ở đây khác với trường hợp trên (vd (21)-(23)): ở trường hợp trên, hai tham thể có mặt là hai thực thể đồng chất, trong khi ở (27) thực thể vị trí, không gian đóng vai trò là cái nền hay cái bối cảnh để một sự tình nào đó diễn ra, xảy ra.
3.4. Quan hệ thời gian
Loại câu quan hệ thời gian, có các mô hình cơ bản: X diễn ra (lúc) A, X diễn ra vào/ trong (thời gian) A, X trước/ sau Y, X diễn ra đồng thời với Y, X diễn ra trước Y. Ví dụ:
(28)  a. Hỏa hoạn xảy ra lúc nửa đêm.
b. Hội thảo khoa học diễn ra trong hai ngày.
c. Việc kiểm tra sức khỏe diễn ra trước việc kiểm tra chuyên môn.
d. Lũ lụt ở miền Trung xảy ra đồng thời với hạn hán ở miền Nam.
            Và ta có những biến thể như sau:
(29)  a. Hạn hán ở miền Nam xảy ra đồng thời với hạn hán ở miền Trung.
b. Đồng thời với lũ lụt ở miền Trung là hạn hán ở miền Nam.
c. Đồng thời với hạn hán ở miền Nam, lũ lụt xảy ra ở miền Trung.
d. (Trong) khi (/ lúc) miền Trung bị hạn hán thì miền Nam bị lũ lụt.
e. Miền Nam bị lũ lụt (trong) khi (/ lúc) miền Trung bị hạn hán.
f. Miền Trung bị hạn hán, trong khi đó miền Nam bị lũ lụt.
            Khả năng biến thể ở loại này cũng tương tự loại quan hệ vị trí, chúng tôi không phân tích thêm.
3.5. Quan hệ liên đới
            Loại câu này có mô hình cơ bản: A có liên quan đến X, A là nạn nhân của X. Ví dụ:
(30)  a. Em Nam có liên quan đến vụ đánh nhau.
b. Em Nam là nạn nhân (/ thủ phạm) của vụ đánh nhau.
Từ hai câu trên ta có thể có biến thể:
(31)  a. Vụ đánh nhau có liên quan đến em Nam.
b. Nạn nhân (/ thủ phạm) của vụ đánh nhau là em Nam.
c. Em Nam là người có liên quan đến vụ đánh nhau.
d. Người có liên quan đến vụ đánh nhau là em Nam.
Như vậy, quan hệ liên đới có thể có biến thể dựa trên thao tác hoán vị (31a, b); hoặc dựa trên thao tác cải biến từ vị tố quan hệ liên đới (có liên quan đến) thành vị tố đồng nhất () và ta sẽ có câu đồng nhất (31c, d).
3.6. Quan hệ tương tác
Loại câu quan hệ tương tác có các mô hình cơ bản: X là cho/ để/ vì/ tại Y, X là mục đích/ mục tiêu/ nguyên nhân/ lý do của X, X loại trừ Y, X quy định Y. Loại câu quan hệ tương tác có nhiều biến thể khác nhau. Ví dụ:
(32)  a. Cô ấy thất bại là do cô ấy chủ quan.
b. Sự chủ quan là nguyên nhân thất bại của cô ấy.
c. Sự chủ quan làm cho cô ấy thất bại.
d. Cô ấy chủ quan nên cô ấy thất bại.
e. Nguyên nhân thất bại của cô ấy là thái độ chủ quan.
Ở (a), sự có mặt của đánh dấu nghĩa quan hệ của câu (khác với câu có trạng ngữ nguyên nhân “bình thường” – không có ); với vị tố là nguyên nhân của câu (b) cũng là một câu quan hệ.
Từ đó ta có biến thể (c) – câu nhân quả (cũng là một kiểu quan hệ, sẽ nói ở phần sau), biến thể (d) – câu ghép nhân quả, và biến thể (e) – câu quan hệ đồng nhất. Trong khi tiến hành chuyển đổi cấu trúc câu, cần chú ý danh hóa một trong hai tiểu cú đóng vai trò tham thể; chẳng hạn (cô ấy chủ quan ® sự/ tính/ thái độ chủ quan của cô ấy; cô ấy thất bại ® sự/ nguyên nhân/ lý do thất bại).
            Một trường hợp quan hệ tương tác khác:
(33)  a. Kinh tế quy định chính trị.
b. Đường lối chính trị được đường lối kinh tế quy định.
c. Đường lối chính trị được quy định bởi đường lối kinh tế.
d. Yếu tố (/ cái) quy định đường lối chính trị là kinh tế.
(34)  a. Loài kiến vàng xuất hiện đã loại trừ nguy cơ cây bị sâu bệnh.
b. Nguy cơ cây bị sâu bệnh được loại trừ nhờ sự xuất hiện của loài kiến vàng.
c. Yếu tố loại trừ nguy cơ sâu bệnh của cây là sự xuất hiện của loài kiến vàng.
            Ở trường hợp này, thao tác hoán vị đòi hỏi thao tác cải biến bị động (được/ bị + V), lý do là vị tố quan hệ ở đây hành chức tương tự như một vị từ chuyển tác (ss. Nam đánh Hà ® Hà bị Nam đánh). Ngoài ra, việc danh hóa ở đây cũng phức tạp hơn: (i) chúng ta danh hóa một vị từ (giống vị từ) chuyển tác nên khả năng hạn hẹp hơn (chẳng hạn, ngoài yếu tố hoặc cái, khó tìm được một tác tố danh hóa khác) (33d, 34c), (ii) chúng ta danh hóa tiểu cú làm thành phần phụ ở cấp độ ngữ đoạn (cây bị sâu bệnh chuyển thành sâu bệnh của cây) (34c), nhưng vẫn giữ tư cách định ngữ (cho nguy cơ), vì nếu thành phần này được nâng cấp có thể sẽ có sự khác biệt lớn về ngữ nghĩa.
3.7. Quan hệ nhân quả
Loại câu này có mô hình cơ bản A làm cho X. Loại câu này phân biệt với câu gây khiến (causative) ở chỗ A gây ra X không phải bởi hành động tác động trực tiếp của mình mà bởi tính cách, bởi một hành động không liên quan đến X nhưng gây ra X [2, 242]. Hay nói khác đi, đây là một quan hệ nhân quả gián tiếp.
Loại này cũng có nhiều biến thể. Ví dụ:
(35)  a. Tính cục cằn của hắn làm cho gia đình bất hòa.
b. Tính cục cằn của hắn gây bất hòa trong gia đình.
c. Tính cục cằn của hắn dẫn đến tình trạng bất hòa trong gia đình.
d. Hắn rất cục cằn, làm cho gia đình bất hòa.
e. Gia đình bất hòa là vì hắn cục cằn.
f. Gia đình bất hòa vì hắn cục cằn (/ vì tính cục cằn của hắn)
g. Hắn cục cằn nên gia đình bất hòa.
            Ở ví dụ trên, vị tố quan hệ làm (cho) có thể được thay thế bằng một số vị tố có nghĩa tương tự: khiến (cho), gây (ra), dẫn/ đưa (đến). Trong nhiều trường hợp, tiểu cú làm bổ ngữ cho vị tố quan hệ phải được danh hóa hiển ngôn (bằng các danh từ trống nghĩa: việc, sự, cái, vụ, nạn, tình hình, tình trạng, hiện tượng, v.v.), đặc biệt chú ý khi sau vị từ có mặt của một giới từ (cho, ra, đến).
            Do nghĩa biểu hiện là quan hệ nhân quả, loại câu này có thể có nhiều khả năng biến thể: sử dụng vị từ gây khiến (câu 35a, b, c, d), sử dụng vị tố quan hệ tương tác (35e), sử dụng kết từ nhân quả (35f, g). Các câu ở ví dụ (35) là câu quan hệ, trừ hai câu (35f, g) – cả hai là câu trạng thái có thành phần phụ nguyên nhân hoặc là câu ghép nhân quả.    
4. Kết luận
Để hình thành một biến thể mới, hầu hết các biến thể cú pháp trong câu quan hệ đều có sự hoán vị. Tất nhiên, tình hình này không chỉ diễn ra ở câu quan hệ mà ở cả các loại câu khác. Sự chuyển đổi này phần lớn tương ứng với sự chuyển đổi hai vai ngữ nghĩa của cấu trúc quan hệ vào vị trí điển hình của Đề, nhưng cũng có nhiều trường hợp một thành phần phụ ở cấp ngữ đoạn cũng có thể được “đề bạt” vào vị trí này.
Các biến thể hình thành trên cơ sở một khung tham tố tuy có sự chia sẻ ngữ nghĩa nhưng xét về nghĩa phát ngôn thì chúng là những câu khác nhau – ít nhất là khác nhau về mặt cấu trúc thông tin (hai thực thể khác nhau được đặt làm Đề thì không thể có hai phát ngôn đồng nghĩa, hiểu theo nghĩa nghiêm ngặt của từ này).
Trong quá trình dạy tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai, chúng tôi nhận thấy việc cung cấp các biến thể cú pháp cho học viên – một sự cung cấp hợp lý, có cân nhắc – chính là cung cấp ‘tài nguyên’ cho yêu cầu sản sinh ngôn ngữ của người học chứ không đơn giản chỉ là cung cấp ngữ pháp, một khái niệm thường gợi đến sự tiếp nhận thụ động nhiều hơn. 
Chúng tôi hy vọng những ý tưởng trình bày ở trên có thể ứng dụng vào việc thiết kế bài học và bài tập cho người học tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
  1. Bùi Minh Toán - Lê Thị Lan Anh 2006. Câu quan hệ tiếng Việt: sự hiện thực hoá các sự tình quan hệ. Ngôn ngữ, số 10/2006.
  2. Cao Xuân Hạo 2001. Tiếng Việt, sơ thảo ngữ pháp chức năng, Q1. Nxb Giáo dục.
  3. Halliday M.A.K. 1994. An Introduction to Functional Grammar. 2nd Edition. Edward Arnord. Great Britain.
  4. Nguyễn Hồng Cổn 2008. Biến thể cú pháp và trình tự dạy các biến thể cú pháp cho người học tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai. Ngôn ngữ, số 6/2008.
  5. Nguyễn Hồng Cổn 2010. Cấu trúc thông tin và biến thể cú pháp của câu tiếng Việt. Ngôn ngữ và đời sống, số 4/2010.
  6. Nguyễn Hữu Chương 2007. Nghĩa của các câu đồng nghĩa sử dụng các từ đảo nghĩa, các vị từ đối xứng. Ngôn ngữ,  số 10/2007.



[1] Trong ngôn ngữ học đại cương, biến thể cú pháp thường được xét về mặt lịch sử, địa lý hoặc xã hội; và đặc biệt thường được gắn với những biến đổi hình thái (morphological-syntactical).
[2] Chú ý: Đối với học viên nước ngoài, một danh ngữ tỉnh lược danh từ khối cũng nên được xem là một biến thể cần đề cập.

No comments:

Post a Comment