QUAN HỆ NHÂN QUẢ VÀ CÂU ĐIỀU KIỆN[1]
1. Câu điều kiện (conditionals) và câu nguyên nhân (causals) thường
được trình bày trong các sách ngữ pháp nhà trường (ngữ pháp “truyền thống”) như
là hai kiểu câu không hề có sự liên quan gì về ý nghĩa. Tuy nhiên, ngay từ những
mô hình câu điều kiện mang tính hình thức này, đã từ lâu, các nhà nghiên cứu phát
hiện ra rằng quan hệ điều kiện của ngôn ngữ tự nhiên rất khác với quan hệ điều kiện
trong logic học. Và cái làm nên sự khác nhau đó chính là quan hệ nhân quả hàm chứa
trong câu điều kiện của ngôn ngữ tự nhiên. Nhờ phát hiện này, câu nguyên nhân và
câu điều kiện trở nên rất gần gũi về ý nghĩa: giữa hai mệnh đề tạo câu cùng tồn
tại mối quan hệ nhân quả.
Và trong
một chừng mực nào đó có thể nói rằng phát hiện về tính nhân quả là một nỗ
lực của các nhà ngôn ngữ nhằm bổ sung cho thuyết hàm chân ngụy, nhằm góp phần giải
thích ý nghĩa câu điều kiện trong ngôn ngữ tự nhiên.
Do khuôn
khổ có hạn, trong bài này chúng tôi sẽ chỉ trình bày tóm lược một số lập luận về
quan hệ nhân quả trong câu điều kiện. Và từ góc độ này, chúng tôi thử đưa ra một
vài bổ sung cho quan niệm chức năng về quan hệ giữa khung đề điều kiện và phần thuyết
được trình bày trong “Tiếng Việt: sơ thảo ngữ pháp chức năng” của Cao Xuân Hạo.
2. Theo Kant, quan hệ nhân quả, giống như thời gian và không gian,
tạo ra những phạm trù cơ bản trong nhận thức của con người. Quan hệ nhân quả không
phải là một phạm trù được chúng ta nhận biết từ kinh nghiệm mà là một trong những
phạm trù cơ sở (primitive) giúp cho chúng ta giải thích kinh nghiệm.([2])
Dữ liệu về quá trình thụ đắc ngôn ngữ, cũng như những từ ngữ liên văn hóa, tỏ ra
phù hợp với quan điểm của Kant: các ngôn ngữ đều có một số đơn vị từ vựng liên quan
đến quan hệ nhân quả.
Theo nhiều
nhà nghiên cứu, quan hệ nhân quả có thể thể hiện trên bề mặt ngôn ngữ ở nhiều hình
thức như cấu trúc điều kiện, cấu trúc nguyên nhân, cấu trúc gây khiến. Thậm chí,
mối quan hệ đó còn thể hiện trong những câu có chứa liên từ and (và), or (hay) và dấu chấm.
2.1. “Điều kiện” (conditionals) đã
được các nhà triết học và các nhà logic học châu Âu nói đến từ lâu. Định nghĩa sớm
nhất về từ If và được đa số nhà logic
ngày nay tuân theo là định nghĩa theo bảng giá trị chân lý:
P
|
Q
|
P ® Q
|
Đ
|
Đ
|
Đ
|
Đ
|
S
|
S
|
S
|
Đ
|
Đ
|
S
|
S
|
Đ
|
(P: điều kiện/tiền đề; Q: kết quả/kết đề;
P ® Q: P kéo
theo P/Nếu P thì Q; Đ: đúng, S: sai)
Nếu áp dụng
định nghĩa trên vào ngôn ngữ tự nhiên thì có khả năng sinh ra những câu tương tự
như sau:
(1) If Hitler was a military genius,
London is in England. (Nếu Hiller là một thiên tài quân sự thì Luân Đôn ở nước Anh) (Thí dụ của Church – dẫn theo Haiman)
Câu trên có tiền đề (Hitler
là một thiên tài quân sự) sai, nhưng có kết đề (Luân Đôn ở nước Anh) đúng. Căn cứ
vào bảng giá trị chân lý, câu trên là một câu đúng. Nhưng trong ngôn ngữ tự nhiên
một câu như vậy khó có thể được chấp nhận.
Theo Comrie
(1986), các loại câu này là kì dị bởi vì trong ngôn ngữ tự nhiên (tương phản với
ngôn ngữ nhân tạo của logic) If đòi hỏi
một liên kết nhân quả (causal connection) giữa hai mệnh đề liên quan. Comrie đưa
ra cách xác định riêng: câu điều kiện “là sự kết hợp phép kéo theo với tính quan
yếu của một quan hệ nhân quả giữa mệnh đề trước và mệnh đề sau".
Ý kiến của
Comrie được nhiều người ủng hộ. Bacbara Dancygier cho rằng sẽ là thiếu sót nếu không
có sự chú ý thích đáng đến xu hướng diễn đạt nguyên nhân trong câu điều kiện (Dancygier
1998: 80):
(2)
Nếu anh thêm kem thì món salát này mùi vị sẽ ngon hơn.
Chúng ta thấy rằng một trong
những nội dung mệnh đề của câu trên là việc thêm kem là một nhân tố dẫn đến / làm
cho hương vị salát ngon hơn.
Bà còn nói
khi những sự kiện thế giới thực được đặt trong quan hệ điều kiện đủ (sufficient
conditional của Van der Auwera (1986))([3])
thì ý nghĩa nhân quả là ý nghĩa bản chất nhất.
Nghĩa là
nếu một sự kiện P (rơi cái ly) là điều kiện đủ cho sự kiện Q (cái ly vỡ) thì câu
Nếu anh làm rơi cái ly này thì nó sẽ vỡ, có thể hiểu một cách tự nhiên là
hành động làm rơi sẽ làm vỡ cái ly (sđd:
82).
Sweetser
(1990), người nghiên cứu ngữ nghĩa điều kiện dưới quan điểm của ngôn ngữ học tri
nhận, cũng thừa nhận mối quan hệ nhân quả giữa hai mệnh đề trong câu điều kiện.
Bà cho rằng sự việc được miêu tả trong mệnh đề phụ có thể là nguyên nhân đủ cho
sự kiện được miêu tả ở mệnh đề chính:
(3)
Nếu Mary đi thì John sẽ đi.
Ở đây việc Mary đi dẫn đến
(làm cho) John đi hoặc việc Mary không đi trong trường hợp nào đó có thể làm cho
John không đi (Sweetser 1990: 114).
Cũng có
khi, người nói dựa vào suy luận "nhân quả" để đưa ra một nhận định nào
đó:
(4)
Nếu anh uống sữa thẳng từ bình thì ngày mai sữa sẽ chua.
Sở dĩ có suy luận này là vì
việc uống sữa thẳng từ bình (không rót ra cốc) làm cho sữa nhiễm khuẩn và điều
này sẽ là nguyên nhân làm cho sữa chua.
Các nhà
nghiên cứu cũng lưu ý rằng không nên hiểu quan hệ nhân quả một cách cứng nhắc, mà
nên nhìn nhận trong cách hiểu phổ biến, thông thường của ngôn từ, vì nó phản ánh
cái cách thức mà người nói và người nghe hiểu trong hoạt động giao tiếp thực tế.
Chẳng hạn, Sweetser lưu ý rằng quan hệ nhân quả được nói ở đây là quan hệ nhân quả
theo nghĩa rộng trong logic học và trong ngôn ngữ học, trong đó sự “cho phép” (enable)
cũng được xử lý như là sự gây khiến (causation).
(5) Nếu tôi là tổng thống, tôi sẽ bán hết đồ sứ ở Nhà
Trắng để tài trợ cho giáo dục song ngữ.
Ở đây việc làm tổng thống không
phải là nguyên nhân mà chỉ là sự “cho phép” hành động mua bán, nhưng hai mệnh đề
trên vẫn được xem như có mối liên kết nhân quả.
2.2. Von
Wright (1975) lập luận rằng con người có khả năng can thiệp có chủ ý vào các sự
kiện và do đó thay đổi quá trình mặc nhiên của nó. Ông khẳng định quan điểm: sự
can thiệp nhân quả khả hữu là thực chất của quan hệ điều kiện.
Trong câu
có liên từ nhân quả, quan hệ nhân quả được diễn đạt một cách rõ ràng thông qua các
biểu thức ngôn ngữ học (linguistic expressions), trong tiếng Anh sẽ là các dấu hiệu
because, as, since, trong tiếng Việt
là vì, nên, bởi, do, tại
v.v..
Trong câu
điều kiện, có sự thiết lập những giả thiết và đưa ra những tiên đoán dựa trên giả
thiết. Những tiên đoán này có được nhờ những gợi ý từ quan hệ nhân quả – tuy chúng
ta cũng có thể thiết lập những quan hệ như thế từ kiến thức nền. Quan hệ điều kiện
trong tiếng Anh được thể hiện tiêu biểu bằng liên từ if, trong tiếng Việt là các từ nếu,
hễ, giá.
Tuy nhiên
liên từ because có những khác biệt rõ
rệt so với since và as. Các mệnh đề because tiêu biểu là những mệnh đề đặt sau (đặt bên phải) theo trật
tự kết quả – nguyên nhân, trong khi đó các mệnh đề if lại được đặt trước (đặt bên trái) theo trật tự nguyên nhân – kết
quả. Chính điều này cho phép mệnh đề điều kiện đảm đương một chức năng khác là chức
năng chủ đề. Ở tiếng Việt, Cao Xuân Hạo cũng cho giới từ vì ở vị trí đầu vế 2 là tiêu biểu hơn, và do đó không thể mang chức
năng chủ đề.
Sự khác
nhau cơ bản giữa if và các liên từ nhân
quả nói chung là liên từ nhân quả dẫn nhập thông tin thực được khẳng định, còn if thì không. Ramsey khẳng định "If
A, B" thật sự đẳng nghĩa với “Because A, B” khi được biết là có giá trị đúng.
Thuật ngữ “điều kiện”, theo ông, có thể được hiểu là môi trường cần thiết để nguyên
nhân hoạt động (xem Platts 1979).
Từ những
ghi nhận trên, chúng ta có thể khái quát như sau:
Nguyên nhân: quan hệ nhân quả
+ Mđ1 sự thật (VÌ)
Điều kiện: quan hệ nhân quả
+ Mđ1 giả định (NẾU)
3. Căn cứ vào những công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt đã
công bố từ trước đến nay có thể thấy có hai quan điểm tiếp cận câu nói chung và
câu điều kiện nói riêng: quan điểm hình thức (hay thường gọi là quan điểm “truyền
thống”) và quan điểm chức năng.
3.1. Đa số các công trình nghiên cứu về câu điều kiện
(các sách ngữ pháp của Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963), Hoàng Tuệ
(1962), Nguyễn Kim Thản (1997), v.v.) đều không nhắc đến mối quan hệ nhân quả. Câu
điều kiện và câu nhân quả được xem là những cấu trúc giống nhau về hình thức ở chỗ
đều do sự kết hợp qua lại hai mệnh đề, khác nhau ở chỗ một bên được đánh dấu bằng
nếu...thì..., một bên được đánh dấu bằng
vì...nên.... Chính vì vậy, sự có mặt của
một trong hai tác tố, nhất là tác tố của mệnh đề đầu câu, là hết sức cần thiết để
hiển ngôn quan hệ nghĩa giữa hai mệnh đề. Trong trường hợp vắng mặt cả hai tác tố,
thậm chí khi hai mệnh đề đứng riêng thành hai câu độc lập, tùy vào ngữ cảnh mà người
ta có thể nhận biết đó là quan hệ điều kiện hay là quan hệ nhân quả.
Chỉ trong
“Ngữ pháp tiếng Việt – Câu” (1985) Hoàng Trọng Phiến mới có một nhận xét sơ bộ rằng
nghĩa của câu điều kiện gần với câu nguyên nhân.
Mãi đến
quyển “Cú pháp tiếng Việt” của Hồ Lê (1992), quan hệ nhân quả trong câu điều kiện
mới được thừa nhận. Tác giả xếp cả 4 loại câu sau đây vào “câu điều kiện hệ quả”:
(1) câu điều kiện hệ quả có điều kiện giả định thuận với hệ quả: nếu1…thì…, hễ…thì…, giá mà…, phải chi…, giả sử..., (2)
câu điều kiện hệ quả có điều kiện giả định nghịch với hệ quả: dù cho…, cho dù…, dù…, dầu…; (3) câu điều
kiện hệ quả có điều kiện thực thuận với hệ quả: vì…nên…, do…, tại…, hèn chi…, nếu2…thì...; (4) câu điều kiện hệ quả có điều
kiện hiện thực nghịch với hệ quả: mặc dù…nhưng...,
tuy…nhưng…
Việc gộp
các tiểu loại như thế chứng tỏ Hồ Lê đã lấy quan hệ nhân quả làm cơ sở để phân định
câu. Và ông cũng đã hiển ngôn như sau: “Một câu như câu sau đây tuy có hình thức
tương tự (tương tự với câu cách thức – hành động, chú thích của LTMH) lại là câu
điều kiện – hệ quả: Vội vàng, ông Ba đánh đổ cả lọ mực.
Bởi vì giữa
hai thành phần của câu, tồn tại quan hệ nhân quả” (Hồ Lê 1992: 325).
Hơn nữa,
việc tách ra 2 loại từ NẾU (nếu1
trong tiểu loại 1 (cùng loại với hễ…thì…,
giá mà…, phải chi…, giả sử... và nếu2
trong tiểu loại 3 (cùng loại với vì…nên…,
do…, tại…, hèn chi…) cho thấy rằng Hồ Lê đã nhìn thấy nếu cũng có khi biểu hiện nghĩa nguyên nhân. Và ông cũng cho thấy nếu2 khác nếu1 ở tính giả định – hiện thực: “Sau NẾU là hiện
thực đã xảy ra và là tiền đề hợp lý của cái hệ quả đặt sau THÌ” (sđd: 339).
Nguyễn Đức
Dân, trong bài “Quan hệ nghịch nhân quả” (2002), đã bàn tương đối kỹ về mối quan
hệ này.
Ông viết
:"Nhiều hiện tượng, trong tự nhiên cũng như trong xã hội thường có quan hệ
với nhau. Quan hệ phổ biến giữa chúng là quan hệ nhân quả. Hai hiện tượng X và Y
được xem là có quan hệ nhân quả khi "xảy ra hiện tượng X thì sẽ xảy ra hiện
tượng Y"" (Nguyễn Đức Dân 2002: 17). Quan hệ này, theo ông, được thể hiện
ở các câu nguyên nhân – kết quả và điều kiện – kết quả.([4])
Đi sâu vào
phân tích mối quan hệ ngữ nghĩa của các kết cấu có quan hệ nhân quả giữa hai thành
phần, Nguyễn Đức Dân dẫn hai ví dụ: một là câu nguyên nhân, một là câu điều kiện:
(6)
Vì chăm học nên nó học rất giỏi
(7)
Nếu chăm học thì nó sẽ học rất
giỏi
Ông cho là cả hai tuy không
đồng nhất với nhau nhưng đều thể hiện quan hệ nhân quả. Sở dĩ như vậy là vì cả hai
đều đáp ứng định nghĩa: "Khi xảy ra hiện tượng X (chăm học) thì xảy ra hiện
tượng Y (học rất giỏi).
Quan hệ
nhân quả không chỉ được thể hiện ở câu NẾU... THÌ... Một trong những ví dụ được ông dẫn ra có cả câu điều kiện chứa
cặp từ nối CỨ... LÀ.... Ông viết: “Câu “Cứ
thấy anh là nó khóc vì nó nhớ đến bố”
phản ánh những quan hệ nhân quả sau:
i)
sự xuất hiện của anh làm nó nhớ đến bố.
ii)
nhớ bố nên nó khóc". (sđd:
18)
Không chỉ thừa nhận mối quan
hệ nhân quả trong câu điều kiện, Nguyễn Đức Dân còn khẳng định câu nhượng bộ là
câu có quan hệ nghịch nhân quả.
3.2. Ngữ pháp
chức năng xem câu điều kiện là một câu đơn có hai thành phần: thành phần thứ nhất
là khung đề, thành phần thứ hai là thuyết. Nếu đối chiếu với ngữ pháp truyền thống
thì khung đề là mệnh đề phụ chỉ điều kiện, thuyết là mệnh đề chính chỉ kết quả.
Khung đề được Cao Xuân Hạo trong sách “Sơ thảo...” định nghĩa
như sau: Khung đề là phần câu nêu những điều kiện làm thành cái khung cảnh huống
thời gian, không gian trong đó điều được nói ở phần Thuyết có hiệu lực (Cao
Xuân Hạo 1991: 82).
Giữa khung đề và thuyết, về mặt ý nghĩa, tồn tại nhiều mối quan
hệ, trong đó có mối quan hệ điều kiện. Nếu gọi khung đề có ý nghĩa điều kiện là
khung đề điều kiện thì mệnh đề điều kiện (theo quan niệm truyền thống) chỉ là một
bộ phận của cái khung điều kiện này. Các bộ phận còn lại khác của khung đề điều
kiện có thể kể là mệnh đề điều kiện nhượng bộ (bắt đầu bằng dù trong kiểu câu thường gọi là câu “nhượng
bộ” dù...thì...) và danh ngữ thời gian
(bắt đầu bằng khi).
Quan điểm câu điều kiện là câu đơn đối lập với quan điểm xem
câu điều kiện là câu ghép của hầu hết các nhà Việt ngữ học khác (Hoàng Tuệ, Nguyễn
Kim Thản, Diệp Quang Ban, Hoàng Trọng Phiến). Sở dĩ có sự khác nhau một cách cơ
bản như thế là do sự bất đồng trong việc nhìn nhận cương vị của các thành phần câu:
các nhà Việt ngữ học truyền thống cho câu điều kiện là câu do hai mệnh đề “ghép”
lại trong khi Cao Xuân Hạo chỉ cho tiểu cú điều kiện là một khung đề, và cả câu
mới tương ứng với một mệnh đề (một nhận định).
Sách “Ngữ pháp tiếng Việt” (Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, 1983), cũng
như các sách ngữ pháp truyền thống khác, xử lý những câu ghép qua lại điều kiện
và nguyên nhân như sau: bộ phận đứng trước là tiền đề, bộ phận đứng sau là kết luận:
Nếu N1 thì
N2
Vì
N1 nên N2 [11,211]
Trong khi đó, “Sơ thảo...” đã xử lý hai loại câu trên hoàn toàn
khác. Giới ngữ điều kiện được cho là giữ
chức năng khung đề bất kể vị trí trước sau. Còn giới ngữ nguyên nhân là trạng ngữ.
Sự khác nhau về mặt chức năng của hai loại giới ngữ này được
Cao Xuân Hạo giải thích như sau: Nội dung của các trạng ngữ trong câu nguyên nhân
không tương ứng với định nghĩa về khung đề. Nó không phải là cái "khung cảnh
huống, thời gian, không gian trong đó điều được nói ở phần tiếp theo có hiệu lực"
(sđd: 82).
(8)
Vì cháu nó ốm tôi không đến được
"Vì cháu nó ốm" không
phải là phần đề vì không thể nói rằng "tôi không đến được" là một nhận
định có giá trị trong phạm vi “cháu nó ốm”. Tình huống này chỉ giải thích sự tình
được nhận định ở phần sau chứ không phải là phạm vi ứng dụng của nó. Vị trí của
các ngữ đoạn vì..., tuy... là tùy chọn,
có thể đặt ở phía sau vị từ của phần thuyết, cũng có thể đặt ở đầu câu. Và cho dù
đặt ở đầu câu thì nó cũng không phải là khung đề.
“Sơ thảo…” cho rằng sự không tương ứng giữa câu điều kiện
và câu nguyên nhân biểu thị một cách minh xác trên bình diện hình thức ngữ pháp.
Ở câu điều kiện và điều kiện nhượng bộ có tác tử phân giới Đề Thuyết THÌ hoặc LÀ.
Còn câu nguyên nhân và câu nhượng bộ không hề có tác tử này.
Như vậy có thể thấy, các nhà Việt ngữ học truyền thống xem
cú pháp của câu điều kiện và câu nhân quả là như nhau, trong khi ngữ nghĩa của chúng
thì biệt lập nhau. (Trên cái nền cú pháp ấy, chỉ có Hồ Lê và Nguyễn Đức Dân thấy
được quan hệ nhân quả trong câu điều kiện). Còn với quan niệm chức năng, câu điều
kiện và câu nhân quả đối lập nhau về cú pháp và quan hệ nhân quả trong ngữ nghĩa
câu điều kiện đã không được bàn luận.
Đọc lại
các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, chúng ta cũng có thể nhặt ra những phản
bác của những người theo chủ nghĩa nhân quả đối với quan niệm điều kiện là những
chủ đề.
Sweetser
cho rằng Haiman chỉ chứng minh được một chiều, đó là sự tương quan giữa chỉ tố chủ
đề và điều kiện, còn chiều ngược lại (tức là sự không tương quan giữa chỉ tố chủ
đề và nguyên nhân) thì không được đề cập đến.
Bà còn nói: “Nếu muốn cho câu điều kiện là chủ đề (đặc biệt cho những
câu điều kiện phản hiện thực) chúng ta phải thừa nhận rằng một chủ đề là một đơn
vị ngôn ngữ nào đó diễn đạt một bối cảnh quan hệ với điều gì khác được biểu hiện
ở mệnh đề chính (như Haiman đã thừa nhận)”.
Và nếu chấp nhận điều này thì không phải chỉ duy nhất mệnh đề điều kiện
có khả năng làm chủ đề. Nhiều cấu trúc ngôn ngữ khác cũng biểu thị điều gì đó làm
bối cảnh, để dựa vào nó mà một điều gì được biểu thị, chẳng hạn mệnh đề since được xem là có chức năng này.
(9) Well, if (as you say) he had lasagne for lunch,
he won't want spaghetti for dinner. (tạm dịch: Nếu
(như anh nói) nó đã ăn món lasagne bữa trưa, nó sẽ không thích món spaghetty cho
bữa tối đâu).
(10)
Well, since he had lasagne for lunch, he won't want spaghetti for dinner.
(tạm dịch: Bởi vì nó đã ăn món lasagne bữa trưa, nó
sẽ không thích món spaghetty cho bữa tối đâu).
Về cấu trúc, (9) và (10) tương tự nhau: trong cả 2 câu, mệnh đề thứ nhất
đều tạo ra cơ sở cho mệnh đề thứ hai đúng (Sweetser 1990: 126), có nghĩa là cả hai
đều là bối cảnh cho phần đi sau nó.
4. Mặc dù có những phản bác như trên, theo nhận xét riêng của chúng
tôi, về mặt cú pháp, cách xử lý điều kiện là khung đề cũng tỏ ra có nhiều ưu điểm.
Ưu điểm
nổi bật nhất của quan niệm điều kiện là khung đề là tính bao quát của nó. Mức bao
quát của nó bao trùm lên cả những câu được gọi là điều kiện giả (hình thức là điều
kiện nhưng không mang những đặc trưng nghĩa của điều kiện như tính giả thiết, tính
nhân quả), câu điều kiện hành động ngôn từ và những câu nhượng bộ (dù...thì...). Ưu điểm đó càng trở nên có
giá trị khi quan hệ nhân quả, cái dường như được xem là cốt lõi của ngữ nghĩa điều
kiện, không thể dùng để giải thích tất cả những câu có bề mặt hình thức bề mặt nếu...thì...:
(11) Nếu tối hôm trước mà ráng chiều
có màu đỏ thì hôm sau trời tốt.
(12) Nếu ông ấy là hiệu trưởng thì
tôi là bộ trưởng Bộ Giáo dục.
Câu (11), “ráng chiều có màu đỏ” dĩ nhiên
không phải là nguyên nhân của “trời tốt” vào ngày hôm sau, dù rằng trong thực tế
có thể có một mối liên hệ nào đó về mặt khí tượng học. Câu (12) cũng không tìm thấy
mối quan hệ nhân quả nào giữa hai mệnh đề: sự việc “ông ấy” là hiệu trưởng một trường
học nào đó không phải là nguyên nhân của sự việc “tôi” là bộ trưởng. Giữa hai sự
kiện này có một mối liên hệ, nhưng rõ ràng không phải là nguyên nhân và kết quả.
Wierzbicka
(1996: 69) cho là dường như if thường
liên quan đến liên kết nhân quả, tuy nhiên bà cũng cho rằng sự liên kết với because không phải luôn luôn hiện diện:
(13) Nếu anh ấy xúc phạm tôi thì
tôi sẽ tha thứ cho anh ấy
Câu (13) không ngụ ý rằng tôi
sẽ tha thứ cho nó bởi vì nó xúc phạm tôi và sự xúc phạm không phải là nguyên nhân
của sự tha thứ.
Bên cạnh
những ưu điểm đã trình bày, cách xử lý điều kiện là khung đề trong “Sơ thảo...”
tuy vậy vẫn còn một vài chỗ chưa thật hệ thống. Và trong phần dưới đây chúng tôi
muốn đưa ra những bổ sung cần thiết và tương đối cụ thể mà góc nhìn nhân quả đã
gợi ra cho chúng tôi.
4.1. Vấn đề tiểu cú điều kiện đặt sau
Xét hai
câu sau:
(14) Tôi nghỉ học vì bị ốm.
Tôi
|
nghỉ
học
|
vì bị
ốm
|
Đề
|
Thuyết
|
|
|
vị ngữ
|
trạng
ngữ
|
(15) Tôi nghỉ học nếu bị ốm.
Tôi
nghỉ học
|
nếu bị
ốm
|
Thuyết
|
Khung
đề
|
Câu (14) là câu nguyên nhân,
câu (15) có điều kiện đặt ở cuối câu, khác với dạng câu điều kiện thông thường.
Nếu thừa
nhận quan hệ nhân quả vốn có ở câu điều kiện thì hai câu trên có một bộ phận chức
năng ngữ nghĩa như nhau, chỉ có một điểm khác là câu điều kiện (15) chỉ một sự việc
giả định, có khả năng xảy ra hoặc không xảy ra, còn câu nguyên nhân (14) thì thuật
lại một sự việc đã xảy ra rồi. Xét về mặt hình thức thì chúng (vì bị ốm, nếu bị ốm) đều là giới ngữ, đặt sau phần thuyết. Nhưng “Sơ thảo...”
lại cho rằng chúng khác nhau về mặt chức năng ngữ pháp, ở (14) ta có một trạng ngữ,
ở (15) ta có một khung đề. Cũng cần phải nói thêm, trong khi coi trật tự trước sau
trong câu của các giới ngữ là quan trọng, như là một tiêu chí phân biệt khung đề
và trạng ngữ, “Sơ thảo...” lại cho chu ngữ điều kiện đặt sau không phải là trạng
ngữ mà là khung đề.([5])
Lại xét
hai trường hợp sau:
(16) Sở dĩ tôi không đến được là
vì cháu nó đang ốm.
kết quả nguyên
nhân (Quan hệ nhân quả)
đề thuyết (Quan
hệ đề thuyết)
(17) Tôi không đến được nếu cháu
nó ốm
kết quả điều
kiện (Quan hệ nhân quả)
thuyết khung
đề (Quan hệ đề thuyết)
Trong nội
bộ các giới từ đánh dấu nguyên nhân có một trường hợp duy nhất (sở dĩ...là vì...) ở đó câu nguyên nhân được
xử lý như là quan hệ đề thuyết giữa hai thành phần trong đó kết quả là phần đề,
nguyên nhân là phần thuyết.
Nếu đứng
trên quan điểm thừa nhận giữa hai thành phần câu có quan hệ nhân quả thì cách xử
lý như trên có tính chất phân biệt: hai tiểu cú cùng biểu hiện nghĩa kết quả, cùng
đứng vị trí đầu câu, thì một là đề (giới ngữ có sở dĩ làm trung tâm), còn một là thuyết.
Cao Xuân
Hạo có đưa ra một lời giải thích cho trường hợp này như sau: “trật tự M1 đứng trước
M2 đứng sau là trật tự thuần Việt, còn M1 đặt sau là do ảnh hưởng của tiếng Pháp”
(sđd: 93). Chúng tôi nghĩ cách giải thích này chưa đủ sức thuyết phục.
4.2. Quan hệ nguyên nhân cũng là một trong những mối
quan hệ nghĩa giữa đề và thuyết.
Trong “Sơ
thảo...”, khi bàn về các mối quan hệ ngữ nghĩa có thể có giữa đề và thuyết, Cao
Xuân Hạo có đưa ra các quan hệ tham tố trực tiếp, tham tố gián tiếp và phi tham
tố. Trong mối quan hệ phi tham tố, có những mối quan hệ cụ thể như: quan hệ đẳng
thức, quan hệ định tính, quan hệ điều kiện, quan hệ ẩn nghĩa. Theo quan sát của
chúng tôi, giữa khung đề và thuyết còn một mối quan hệ nữa. Đó là mối quan hệ nhân
quả.
Trong tiếng
Việt, có thể diễn đạt theo cách của Cao Xuân Hạo, khi cả đề và thuyết đều là sự
tình, sự tình thứ nhất làm thành cái khung giải thích cho sự hiện hữu của sự tình
thứ hai, ta có quan hệ nghĩa nhân quả. Nếu xem khung đề được đánh dấu bằng thì là đặc trưng của quan hệ điều kiện (hiểu
theo nghĩa rộng nhất) thì có thể diễn đạt rằng trong tiếng Việt có những phát ngôn
biểu hiện nghĩa nhân quả dưới hình thức của một cấu trúc điều kiện. Tuy nhiên cách
diễn đạt thứ hai này tỏ ra không chặt chẽ vì nó hàm ý rằng có một quan hệ nghĩa
thứ hai (nghĩa nhân quả) bên dưới quan hệ nghĩa thứ nhất (nghĩa điều kiện).
Quả thực,
trong thực tế có những khung đề chỉ có tác tử đánh dấu thì([6]) chỉ
có một cách diễn giải duy nhất là nguyên nhân thì mới thích hợp với nghĩa của diễn
ngôn; khả năng thêm nếu, dù hoặc khi vào trước tiểu cú “điều kiện” bị loại trừ một khi “điều kiện” là
một sự tình hiện thực.
Dưới đây
chúng tôi sẽ dẫn ra một số trường hợp mà khung đề (có cấu tạo của một tiểu cú hay
một ngữ vị từ) được đánh dấu bằng thì
thỏa những tiêu chí mà “Sơ thảo...” đã đề cập cho việc xác định khung đề. Về mặt
nghĩa, những câu này chỉ có thể cải biến thành các cấu trúc nhân quả tiêu biểu với
vì, nên, vì...nên... để có thể phù hợp với nội dung cuộc
thoại.
(18)
Liên: Nhưng nhà tôi không trông thấy gì hết anh ạ.
Văn: Chị
rõ lẩn thẩn. Anh ấy vừa say rượu, hơi men bốc lên, vừa bị thương ở mi mắt
thì còn trông thấy gì. Tôi đã xem kỹ rồi…
(Gánh hàng hoa-59)([7])
(19)
Minh: Xưa nay không có đồng hồ thì đã sao?
Văn:
Nhưng lần này thì anh cứ cầm cho tôi bằng
lòng. Ở nhà tôi đã có đồng hồ treo. Vả tôi thường vẫn đến đây học với anh
thì cũng tiện cho tôi lắm. (Gánh
hàng hoa-31)
(20)
Nhung: Em đọc văn anh mà em yêu anh quá, anh ạ, em cứ tưởng họ đặt ra câu chuyện
anh mù). Nhưng nay em thấy anh mù thật, thì em thích quá, mà em càng yêu
anh.
Minh:
Vậy ra cô chỉ thích tôi mù mãi.
Nhung:
Không phải thế. Nhưng em thấy anh thành
thực thì em yêu đó thôi. Đàn bà chúng em yêu nhất hạng người thành thực.
(Gánh
hàng hoa-183)
(21) Tuổi thanh niên là tuổi chơi
bời. Họ dễ ham mê tửu sắc lắm. Mình quê mùa, cũ kỹ thế này thì giữ sao nổi
tấm lòng yêu của họ. Đến ra đường đi với mình, họ còn lấy làm ngượng nữa là.
(Gánh
hàng hoa-51)
(22)
Hoạt: Hôm nay mợ giáo không đi bán hoa
Liên:
Tôi là mợ giáo đâu mà ông gọi tôi là mợ giáo.
Hoạt:
Cậu Minh đỗ ông giáo thì mợ chẳng là
mợ giáo còn là mợ gì.
(Gánh hàng
hoa-221)
(23) Cái đám cưới mới giản dị và
cảm động làm sao! Bên giường người ốm, hai vợ chồng cùng quỳ và cùng khóc. Vì
bà lão thấy con gái đã thành gia thất, và lại lấy được người chữ nghĩa
giỏi giang, sau này thế nào cũng làm nên thì sung sướng quá đến nỗi lịm
đi.
(Gánh
hàng hoa-10)
Trong tất cả các dẫn chứng
trên, các tiểu cú “điều kiện” đều là những khung cảnh huống nguyên nhân chứ không
thể tồn tại một cách hiểu nào khác.
Ở (18),
Văn giải thích cho Liên nghe cái lý do vì sao Minh không thể thấy mọi vật chung
quanh "Vì Văn say rượu và bị thương ở mi mắt nên không trông thấy được".
(18) không thể thêm nếu hoặc khi vào được.
Ở (19),
Văn giải thích cho bạn nghe lý do vì sao mình đưa cái đồng hồ cho bạn. Có 2 lý do:
lý do thứ nhất là nhà Văn đã có đồng hồ, lý do thứ hai (được đánh dấu bằng từ vả) là Văn thường vẫn đến học chung với Minh
"nên càng tiện". Ở đây sự có mặt của khi hoặc nếu có thể không
có vấn đề về cú pháp nhưng sẽ dẫn đến sự không tương quan với bối cảnh của câu chuyện.
Ở (20),
có hai khung đề điều kiện. Chúng ta có thể so sánh để thấy rằng khung đề đầu là
cảnh huống thời gian "khi em thấy anh mù thật thì em thích quá…". Sau
đó Minh có ý hiểu lầm câu nói của Nhung, cho là cô ấy thích mình mù nên Nhung tìm
cách giải thích vì sao cô ấy nói như vậy "vì em thấy anh thành thực nên em
yêu đó thôi". Khung đề sau chỉ có thể là cảnh huống nguyên nhân mà thôi.
Ở (21),
chúng ta đọc thấy tâm sự của Liên. Cô suy nghĩ về việc chồng mình không thích mình.
Chồng cô đang ở cái tuổi ham chơi bời, thích các cô gái đẹp. Rồi cô lập luận:
"Vì cô không phải là các cô gái đẹp (thực tế là cô quê mùa) nên cô không giữ
được tấm lòng yêu của chồng". Cô đã tìm ra lý do để tự giải thích cho mình.
Ở đây “cũ kỹ”, “quê mùa” không hề là một sự việc giả định, cũng không phải là một
cảnh huống thời gian, nó chính là một cảnh huống nguyên nhân.
Ở (22),
Hoạt giải thích lý do vì sao mình gọi Liên là mợ giáo. "Vì cậu Minh đỗ ông
giáo nên mợ là mợ giáo". Trong câu chuyện, Minh đã đỗ ông giáo rồi cho nên
Hoạt không thể nào nêu lên một giả thiết với từ nếu, lại càng không thể dùng khi.
Ở (23),
cấu trúc Vì...thì... cho thấy rằng thì cũng được dùng để đánh dấu khung đề trong
câu nguyên nhân.
Sở dĩ có
hiện tượng các cấu trúc điều kiện mà lại có thể có tiềm năng là một câu nguyên nhân,
là vì, như đã phân tích ở trên, bản chất mối quan hệ ngữ nghĩa giữa hai thành phần
trong cấu trúc là quan hệ nhân quả, nên chỉ cần có sự di chuyển từ tính giả định
sang tính hiện thực là đã có thể một câu điều kiện tương đồng với một câu nguyên
nhân. Noriko Akatsuka (1985: 29) cho rằng khi M1 di chuyển sang phạm vi hiện thực
thì quan hệ điều kiện trở thành quan hệ thời gian và nguyên nhân – kết quả.
Và cũng
vì lẽ đó có khi người ta cũng sử dụng câu điều kiện để thể hiện nguyên nhân vì một
mục đích phát ngôn nào đấy. Và từ thì,
rất nhiều trường hợp đánh dấu nghĩa nguyên nhân.
Sự nhập
nhằng giữa nguyên nhân và điều kiện của thì,
một lần nữa, củng cố thêm bản chất nhân quả của câu “điều kiện”.
Từ những
dẫn chứng về từ thì ở trên đưa đến một
hệ quả là chúng ta có thể bổ sung mối quan hệ nguyên nhân vào trong các mối quan
hệ phi tham tố, bên cạnh các mối quan hệ đã được “Sơ thảo...” nêu ra là quan hệ
định tính, quan hệ ẩn nghĩa và quan hệ điều kiện.
KẾT LUẬN
Tất cả các
quan điểm đều sẽ trở nên sáng rõ hơn nếu chúng ta nhìn nó dưới góc độ của một quan
điểm khác hay một bình diện khác.
Đưa quan
hệ nhân quả vào quan điểm phân tích đề thuyết như chúng tôi đã trình bày ở trên,
thực chất không tạo đối lập giữa cú pháp và ngữ nghĩa; và có nhiều công trình sử
dụng cả hai quan điểm này. Chẳng hạn như công trình của Schiffrin, trong đó tác
giả thừa nhận câu điều kiện là chủ đề nhưng vẫn dùng quan hệ nhân quả cho những
phân tích ngữ nghĩa và cho rằng đề thuyết thuộc phạm vi của tổ chức diễn ngôn. Bà
viết: “có quá nhiều lý do để tin rằng các Điều kiện chia sẻ nhiều thuộc tính ngữ
nghĩa với Nguyên nhân và vì thế các sự tình có thể có một chức năng đơn nhất. Tuy
nhiên cũng còn nhiều lý do để củng cố niềm tin rằng chỉ câu điều kiện mới có chức
năng làm chủ đề, còn các trạng ngữ khác thì không” (Schiffrin 1992: 187).
Trong bài
viết, chúng tôi đã cố gắng đứng trên góc độ quan hệ nhân quả (quan hệ logic-ngữ
nghĩa) để bổ sung thêm một cái nhìn về cách xử lý câu điều kiện dưới quan điểm chức
năng. Từ đó, chúng tôi đã bổ sung vào trong mối quan hệ ngữ nghĩa giữa khung đề
và thuyết mối quan hệ nguyên nhân.
Thiết nghĩ, những phân tích sâu sắc
và mở rộng hơn về mối ngữ nghĩa của khung đề điều kiện và thuyết (đặc biệt những
yếu tố tạo thành khung đề có thể có những ý nghĩa rất khác biệt với nếu so với vì...nên...) là những vấn đề còn đang để mở.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO CHÍNH
1.
Cao Xuân Hạo 1991. Tiếng Việt- Sơ thảo ngữ pháp chức năng, q.I. Nxb KHXH. H.
2.
Comrie Bernard 1986. Conditionals: a
typology. Trong On Conditionals,
Elizabeth Closs Traugott. Cambridge University Press.
3.
Dancygier B. 1998. Conditionals and Prediction. Cambridge University Press.
4.
Haiman J. 1978. Conditionals are topics.
Language 54.
5.
Hồ Lê 1992. Cú pháp Tiếng Việt, q.2. Cú pháp cơ sở. NxbKHXH. H.
6.
Hoàng Trọng Phiến 1980. Ngữ pháp tiếng Việt – Câu. Nxb KHXH. H.
7.
Lê Xuân Thại 2002. Mấy suy nghĩ về quan
niệm Đề - Thuyết của GS Cao Xuân Hạo. Ngôn
ngữ, số 14/2002. H. Tr. 71-80.
8.
Nguyễn Đức Dân 2002. Nỗi oan THÌ, LÀ, MÀ. Nxb Trẻ. TpHCM.
9.
Noriko Akatsuka 1985. Conditional and
epistemic scale. Language Vol.61
10.
Schiffrin Deborah 1992. Conditionals as
topics in discourse. Linguistic 30.
11.
Sweetser Eve 1990. From Etymology to Pragmatics. Cambridge.
12.
Ủy ban KHXHVN 1983. Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb KHXH, Hà Nội.
13.
Van der Auwera Johan 1986. Conditionals
and Speech Act. Trong On Conditionals,
Cambridge University Press.
14.
Wierzbicka A. 1996. Semantics Primes and Universals. Oxford Uni Press.
[1] Bài đã đăng ở tạp chí Ngôn
ngữ, số 8/2009, H.
[2] Dẫn theo Anna Wierzbicka (1996: 70).
[3] Sự kiện hay sự tình được miêu tả ở P, nếu được hiện thực hóa, sẽ là
đủ đối với sự hiện thực hóa hay sự tình ở Q.
[4] Thực ra ông có đưa thêm 2 loại nữa là quy luật nhân quả và
câu giả định nhưng theo chúng tôi 2 loại này cũng chỉ nằm trong phạm vi câu điều
kiện – kết quả mà thôi.
[5] “Sơ thảo...” đã viết, mặc dù có đôi chút dè dặt, “nên coi những chu
ngữ điều kiện đặt sau vị ngữ như những khung đề (Cao Xuân Hạo 1991: 93).
[6] Ý kiến này gặp
nhiều phản bác, một trong những ý kiến đó là của Lê Xuân Thại. Ông chỉ ra 2
loại từ THÌ: (i) Thì trợ từ là một
yếu tố ngữ dụng để nhấn mạnh hoặc biểu thị sự tương phản; (ii) Thì liên từ là một phương tiện tổ hợp cú
pháp (khi…thì…, nếu…thì…, dù.. thì…)
liên kết hai thành phần câu.
Theo ý kiến của Lê Xuân Thại thì hai từ THÌ ấy bị “Sơ
thảo…” đồng nhất và lấy làm tiêu chí phân loại, qui tất cả cấu trúc có THÌ
thuộc về một loại đó là Đề và Thuyết. Điều này dẫn đến một hệ quả là “Sơ thảo…”
đã đồng nhất hai cấu trúc khác nhau: câu chủ vị và câu điều kiện làm một, mặt
khác đối lập câu điều kiện – kết quả với các loại câu ghép khác không có THÌ được
cấu tạo theo công thức VÌ…NÊN…, TUY…NHƯNG... (Lê Xuân Thại 2002. Mấy suy nghĩ về
quan niệm Đề - Thuyết của GS Cao Xuân Hạo. Ngôn ngữ, số 14/2002. H. Tr. 71-80)
No comments:
Post a Comment