1. Ở nhiều
thứ tiếng, chẳng hạn tiếng Latin, tiếng Anh([1]),
câu mệnh lệnh thuộc một thức ngữ pháp (imperative mood), phân biệt với những
phát ngôn thuộc thức trần thuật (indicative) và thức giả định (subjunctive). Dĩ
nhiên, cấu trúc trần thuật, bao gồm cả cấu trúc nghi vấn, cũng có thể có lực
ngôn trung (illocution force) như một phát ngôn thuộc thức mệnh lệnh.
Trong đa số các sách ngữ pháp
tiếng Việt, thuật ngữ "câu mệnh lệnh" (hay "câu cầu khiến",
"câu sai khiến", "câu khuyến lệnh") nằm trong sự phân biệt
với "câu trần thuật" (hay "tường thuật"), "câu nghi vấn"
và "câu cảm thán" – bốn loại câu phân loại theo “mục đích phát ngôn”([2]).
Theo đó, câu mệnh lệnh được hiểu là một phát ngôn tác động trực tiếp vào người
nghe, nhằm làm người nghe thực hiện một hành động được nêu trong nội dung phát
ngôn đó.
Tiếng Việt, cũng như nhiều ngôn ngữ khác, có nhiều phương thức
diễn đạt “mệnh lệnh”; trong đó hãy và
đi có thể xem là hai chỉ tố từ vựng nổi
bật. Người nói sử dụng hãy và đi để hiển ngôn trực tiếp hành động yêu cầu; người nghe (có khi bao
gồm cả người nói) ở vào tình thế phải thực hiện yêu cầu đó. Chẳng hạn:
(1) Em hãy trình bày ý nghĩa lịch sử của cách mạng Pháp!
(2) Cuộc họp kết thúc. Chúng
ta hãy trở về làm việc!
(3) Con khóa cửa đi!
(4) Em ăn đi!
Diệp Quang Ban thì phân biệt:
hãy – “có ý nghĩa khẳng định và có sắc
thái trung hòa”, đi – “sắc thái thân
mật, suồng sã” [2: 234]. Nguyễn Anh Quế không nói đến “sắc thái” của hãy, nhưng về đi thì ông cho rằng “người nói muốn tỏ ra dứt khoát, rõ ràng” [3: 228].
Trong các tài liệu dạy tiếng,
có lẽ do hiểu “mệnh lệnh” là nghĩa chung và duy nhất nên hãy và đi thường cũng chỉ
được phân biệt ở phạm vi sử dụng hoặc phong cách chức năng. Theo đó, hãy thường được dùng trong bối cảnh giao
tiếp trang trọng, chính thức; còn đi dùng
trong bối cảnh giao tiếp cá nhân, thân mật.
Chúng tôi cho rằng, trên cơ sở
nghĩa “yêu cầu”([3]), chứ không phải “mệnh lệnh”
như thường dùng, mỗi từ có những đặc trưng ngữ nghĩa và ngữ pháp riêng. Cái
chung (nghĩa “yêu cầu”) làm cho hai từ có thể thay thế cho nhau trong nhiều
tình huống hoặc ngữ cảnh – tùy thuộc vào góc nhìn của người nói; còn cái riêng
làm cho hai từ khác biệt nhau, trong đó sự phân biệt phong cách chỉ là một hệ
quả, và người bản ngữ không bao giờ nhầm lẫn khi chọn lựa.
Chúng ta thử phân biệt.
2. Về cơ
bản, hãy và đi giống nhau ở chỗ cả hai hiển ngôn ý chí của người nói là yêu cầu
người nghe thực hiện một hành động nào đó – do vậy, hành động được yêu cầu trước
hết phải có tính [+chủ ý].
Hãy là một vị từ tình
thái chủ quan (thuộc về người nói) biểu thị hành động kêu gọi([4]).
Người nói sử dụng “hãy + V” để kêu gọi
người nghe thực hiện hành động V (sự có mặt của chủ thể hành động, giữ vai trò
đề, trước hãy không có tính chất bắt
buộc; thường là đại từ ngôi thứ hai, có thể bao gồm người nói – (chúng) ta, (chúng) mình)). V thuộc về ý chí của người nói:
người ta thường kêu gọi khi nhận thấy rằng hành động V có thể không xảy ra hoặc
không xảy ra như mong muốn. Do vậy, khi tiếp nhận lời kêu gọi, người nghe đứng trước sự lựa chọn: hoặc đáp ứng hoặc
không đáp ứng, và có thể đáp ứng bằng nhiều hành động khác nhau. Nghĩa là người
nghe có vẻ như không bị đặt trong vị thế thấp hơn người nói.
Có lẽ chính vì lý do này, lời kêu gọi “hãy + V” thích hợp trong cách bối cảnh chính thức, trang trọng –
nơi mà hành động yêu cầu không hạ thấp sĩ diện người đối thoại. Nó cũng có thể
được dùng trong giao tiếp cá nhân (trong gia đình, bạn bè); khi đó nó mang màu
sắc lịch sự, có đôi chút khách khí (không có tính áp đặt như những cách diễn đạt
khác).
(5) Các em hãy
tập trung vào việc học! (Hiệu trưởng nói chuyện với học sinh)
(6) Hãy đoàn kết vì sự phát triển của công ty! (Giám
đốc nói với nhân viên)
(7) Ông hãy gác chuyện đó qua một bên, chờ thi xong rồi tính! (Nói với bạn)
(8) Cậu hãy giúp tớ một lần này nữa! (Nói với bạn)
(9) Bố mẹ hãy để con tự quyết định
chuyện của con! (Nói với bố mẹ)
(10) Con hãy nghĩ đến gia đình trước
khi quyết định! (Nói với con)
(11) Chúng ta hãy cùng nhau giữ
gìn thành phố này sạch đẹp!
Do bản chất ngữ nghĩa của hãy,
chỉ những hành động nào thích hợp (với sự kêu gọi) thì người ta mới kêu gọi.
Thử tưởng tượng tình huống cho những phát ngôn sau đây:
(12) Con hãy tiết kiệm nước!
(13) Anh hãy cố gắng hơn nữa!
(14) ?Chiếc
(xe) nào cũng đẹp, nhưng cậu hãy mua chiếc đỏ!
(15) ?Sắp đến giờ đi học rồi! Con hãy uống sữa!
(16) ?Em hãy
rửa chén! Hồi nãy chị nấu cơm rồi.
(17) ?Con hãy thơm bà rồi về!
Người ta có thể kêu gọi "tiết
kiệm", "cố gắng" nên câu (12) và (13) được chấp nhận, nhưng thường
người ta không kêu gọi những hành động đơn giản và cụ thể như "mua", "uống
sữa", "rửa chén", "thơm" (các câu (14) – (17)); do vậy
những câu trên khó được chấp nhận nếu không có những ngữ cảnh hoặc bối cảnh
giao tiếp thích hợp (dù không thể cho là sai ngữ pháp). Thông thường, sau hành
động kêu gọi hãy, có vẻ như có một
khoảng trống để người nghe suy nghĩ và quyết định phản ứng (đáp ứng hay không
đáp ứng). Và nếu đáp ứng, hành động đáp ứng thường không giới hạn ở thời gian
và không gian (hành động đáp ứng thường không đòi hỏi diễn ra ngay sau lời kêu
gọi, có thể lặp lại, với những hành động và phương thức khác nhau).
Sau hãy là một vị từ
[+chủ ý], và thường là vị từ hành động. Tuy nhiên, những vị từ thuộc loại khác
cũng có thể xuất hiện sau hãy; khi
đó, do tác động của hãy nó mang thuộc
tính [+chủ ý]. Ví dụ:
(18) Em hãy mạnh mẽ lên!
(19) Chúng ta hãy quên chuyện cũ!
(20) Hãy yêu lấy bản thân
mình! (Lời một bác sĩ)
Vị từ "mạnh mẽ", "quên",
"yêu" vốn [-chủ ý], nhưng ở các câu trên được sử dụng như [+chủ ý].
Người nói kêu gọi người nghe làm hành động
gì đó để trở nên mạnh mẽ, để không bị câu chấp bởi chuyện cũ, để tỏ ra yêu quý
bản thân mình. Trên thực tế, cách dùng chuyển nghĩa này rất phổ biến, đặc biệt
là ở bối cảnh giao tiếp mang tính xã hội (trong văn chương, trên các phương tiện
truyền thông): "Hãy yêu nhau đi!",
"Hãy vui lên!", "Hãy cười lên!", "Hãy là chính mình!", "Hãy quên quá khứ!", v.v..
Nói cụ thể hơn, hãy có
thể kết hợp với những vị từ biểu thị những hành động được thực hiện bằng một/vài
động tác cụ thể ("hãy tắt
đèn", "hãy đóng cửa",
"hãy đặt tay lên bàn",
"hãy mở sách ra", "hãy trả lời câu hỏi số ba" – lời của
giáo viên nói với đám đông học sinh, v.v.). Nhưng khả năng kết hợp của hãy đặc biệt mạnh (so với đi) ở những vị từ có ngoại diên rộng, tức
những vị từ có thể "diễn giải" thông qua hàng loạt vị từ khác nhau –
đây chính là "dư địa" cho sự lựa chọn của người nghe như đã nói ở
trên; chẳng hạn: "hãy giúp đỡ",
"hãy tiết kiệm", "hãy cố gắng", "hãy nỗ lực", "hãy tăng cường", "hãy giúp đỡ", "hãy hy sinh", "hãy bảo vệ", "hãy xây dựng", "hãy phát triển", "hãy phát huy", "hãy tiến lên", v.v.. Quả thật, với
những vị từ bổ ngữ này, khó có thể định ra một hành động nhất định nào được yêu
cầu. Ví dụ, với lời kêu gọi "Hãy
góp tiền/tặng quần áo cho đồng bào bị bão lụt!" người ta sẽ đáp ứng bằng
hành động cụ thể ("góp tiền/tặng quần áo"); nhưng lời kêu gọi "Hãy giúp đỡ đồng bào bị bão lụt!" thì
không chỉ định một hành động cụ thể nào cả, người nghe có thể đáp ứng bằng cách
lựa chọn một/nhiều hành động cụ thể khác nhau (góp tiền, góp quần áo, góp thuốc
men, góp lương thực, khám bệnh, chữa bệnh, v.v.) – những hành động được xem là
"giúp đỡ".
Thậm chí, sau hãy có
thể là một giới ngữ, chẳng hạn:
(22) Chúng ta hãy vì công việc mà bỏ qua chuyện cũ!
Ở hai phát ngôn này, người
nghe, nếu muốn đáp ứng, phải tự tìm kiếm, lựa chọn những hành động có thể xem
là "vì người khác", "vì công việc".
Có một trường hợp hãy
được dùng rất phổ biến trong khẩu ngữ. Đó là tổ hợp “...đã, rồi hãy...!” hoặc
“...đã, rồi hẵng...!”([6]).
Hiện tượng này đã làm cho Trần Trọng Kim (et al.) nhầm lẫn: các tác giả cho rằng
hãy được dùng để yêu cầu người nghe với
hàm ý rằng "muốn cái gì hay làm thế
nào, rồi sẽ biết, sẽ được" [7: 94]. Thật ra, đây chính là ý nghĩa của cả cấu
trúc, trong đó có vai trò quan trọng của đã,
rồi, của tiểu cú hoặc ngữ vị từ đi trước chứ không phải là ý nghĩa của hãy.
(23) Anh nói chuyện với họ đã, rồi anh hãy quyết định!
(24) Cơm nước xong đã, hãy làm!
Ở các phát ngôn này có hai bộ
phận: bộ phận đứng trước (một ngữ vị từ, một tiểu cú, thường kết thúc bằng đã) biểu thị điều kiện cần
thỏa mãn trước khi thực hiện yêu cầu biểu thị ở bộ phận đứng sau (một tiểu
cú thường bắt đầu bằng “rồi hãy...”).
Tức là, về nghĩa biểu hiện, đây là hai "mệnh lệnh" nối tiếp nhau:
"mệnh lệnh" thứ nhất được hiển ngôn bằng đã, "mệnh lệnh" thứ hai được hiển ngôn bằng hãy. Điều đó được thể hiện về mặt ngữ
pháp: đây là một kiểu câu ghép với hai tiểu cú có quan hệ độc lập tương đối với
nhau (thực chất là một thứ quan hệ tuyến tính, không thể đảo trật tự), có thể
tách ra thành hai câu riêng biệt mà ý nghĩa hầu như không đổi; trong đó, đã và/hoặc rồi là những yếu tố đánh dấu trật tự thời gian trước sau của sự
tình, hoàn toàn có thể thay bằng danh ngữ sau
đó có nghĩa tương đương ("Anh nói chuyện với họ xong (đã)! (Rồi) (Sau đó) anh hãy quyết
định!").
Ở hai ví dụ trên, người nói yêu cầu thực hiện hành động 1 ("nói
chuyện", "ăn uống") trước hành động 2 ("quyết định", "làm");
do vậy, nó mang tính điều kiện. Trong giao tiếp, người nói có thể sử dụng những
phát ngôn này với hàm ý ngăn trở hành động 2 (chứ không kêu gọi hành động 2) bằng
cách đặt ra điều kiện ở hành động 1. Cần chú ý: trong các phát ngôn tương tự, thường
thì người nghe đã đứng trước hành động 2, tức là đã có dấu hiệu, biểu hiện hoặc
đã bộc lộ ý định sắp/sẽ thực hiện hành động 2 – nghĩa là hành động 2 ít nhiều
thuộc về ý chí người nghe; trong khi đó, hành động 1 thường thuộc về ý chí của
người nói. Ví dụ:
(25) Học hành xong xuôi đi, rồi hãy nghĩ đến chuyện lấy vợ!
(26) Làm xong đã, rồi hãy nói!
Ở (25) ông bố ngăn con trai "lấy vợ"
(ý của đứa con), còn "học hành xong xuôi" là "điều kiện"
ông bố đặt ra (ý của ông bố, đứa con có thể không hề nghĩ gì về điều này). Câu
(26) cũng tương tự.
Ngay cả khi bộ phận đứng
trước là một ngữ danh từ biểu thị thời gian, tình hình cũng không thay đổi, chẳng
hạn:
(27) Một lát nữa hãy đi!
(28) Việc đó, mai hãy làm!
Hoàn toàn có thể giải thích ở hai câu trên
có sự tỉnh lược vị từ "chờ" (nếu là thời đoạn, vd (27)) hoặc "chờ
đến" (nếu là thời điểm, vd (28)): "chờ một lát nữa…", "chờ
đến mai…"; nghĩa là không khác gì các vd (23) – (26).
So
sánh các ví dụ vừa phân tích với các câu sau đây:
(29) Nếu anh đã nghĩ thế, hãy làm theo ý của anh!
(30) Bao giờ nó đến thì hãy gọi cho tôi!
(31) Chừng nào xong hãy hay!
Ở ba câu này, ta có một
hình thức điều kiện rõ rệt, chỉ có điểm khác: tiểu cú đứng sau biểu hiện một
"mệnh lệnh" (điều phải thực hiện) trong khuôn khổ cảnh huống, điều kiện
của tiểu cú đứng trước; nghĩa là ta chỉ có một "mệnh lệnh" duy nhất. Trên
hình thức, giữa hai tiểu cú có thể sử dụng thì
để phân giới đề - thuyết (các chỉ tố điều kiện "nếu", "bao giờ",
"khi nào", "chừng nào" có thể xuất hiện, nhưng không bắt buộc).
Trong khi đó, ở các ví dụ (23) – (28), tuyệt nhiên thì không thể có mặt, vì nó là câu ghép.
3. Đi là một chỉ tố tình thái (ngữ khí từ) biểu thị hành động thúc
giục, chỉ đứng cuối câu hoặc đứng cuối ngữ vị từ biểu thị nội dung thúc
giục, nếu sau nó là một ngữ khí từ khác. Người ta thúc giục một người thực hiện
V khi người đó đang đứng trước hành động V. Điều này dẫn đến hai đặc điểm có
quan hệ với nhau: (i) Ở lời thúc giục “V + đi!”,
V thường là hành động mà người nói đã quyết định, không có chỗ cho sự cân nhắc, chọn lựa của người nghe (khác với hãy), dù rằng nó không tất yếu dẫn đến
hành động đáp ứng, cũng có khi là hành động mà người nghe đang cân nhắc, chưa dứt
khoát thực hiện; (ii) V thường là một hành động cụ thể, trong một bối cảnh cụ
thể với những đối tượng cụ thể; do vậy hành động được đánh dấu bằng đi thường là hành động duy nhất và tức
thì.
Hai điều vừa nói làm cho đi
phân biệt khá rõ với hãy về mặt ý
nghĩa. Xét các ví dụ sau:
(32) a. Tám giờ rồi, con làm bài/đi ngủ/uống sữa đi!
b. ?Tám giờ rồi, con hãy làm bài/đi ngủ/uống sữa!
(33) a. Em
mua cái áo xanh đi! Đẹp đấy!
b. ?Em hãy mua cái áo xanh! Đẹp đấy!
(34) a. Con
ăn nhanh đi, trễ rồi!
b. ?Con hãy
ăn nhanh, trễ rồi!
(35) a. Hóa
đơn đây, anh ký đi!
b. ?Hóa đơn đây, anh hãy
ký!
Ở các câu (a), người nói chỉ thúc giục chứ không kêu gọi (nên dùng đi, không dùng hãy). Dĩ nhiên, trong thực tế, người nghe có thể không làm theo yêu
cầu của người nói, nhưng nói chung, cái hành động mà người nói thúc giục có thể
xem là đã quyết định (về phía người nói); nghĩa là, người nghe chỉ có việc thực
hiện (hoặc không thực hiện) chứ không có sự cân nhắc thực hiện như thế nào, vào
lúc nào.
Ý nghĩa thúc giục của cấu
trúc “V + đi!” thể hiện ở hành động đặt
ra trước người nghe: đó là một hành động cụ thể, duy nhất, thường hiểu là cần
phải thực hiện ngay, rất khác với hãy.
So sánh:
(36) a. Con tắm rửa/rửa tay/rửa
mặt đi!
b. ??Con giữ gìn vệ sinh thân thể đi!
(37) a. Con nhặt cái hộp này bỏ vào
thùng rác đi!
b. ??Con bảo vệ môi trường đi!
(38) a. Con học bài/làm bài/học thuộc
lòng bài này đi!
b. ??Con nỗ lực học tập đi!
Ở các câu (a), “tắm rửa”, rửa tay”, “nhặt”, “học bài”, “làm bài”... là
những hành động được yêu cầu thực hiện một
lần, trong bối cảnh duy nhất (thường
là bối cảnh hiện tại, trước mắt người tham gia hội thoại); trong khi ở các câu
(b), lời yêu cầu không chỉ ra hành động cụ thể nào cả, không thích hợp với đi, nên câu khó chấp nhận.
Hệ quả của điều vừa trình
bày: những thành phần phát ngôn đi kèm, thường là trạng ngữ, mang ý nghĩa cảnh
huống hoặc điều kiện tổng quát không thể xuất hiện trước/sau lời yêu cầu “...đi!”. So sánh các câu (a) và (b) sau
đây:
(39) a.
??Trước khi ăn cơm, con rửa tay đi!
b. Sắp đến giờ cơm rồi, con rửa tay đi!
(40) a.
??Khi nhìn thấy rác trên đường, con nhặt bỏ vào thùng rác đi!
b. Cái hộp sữa kìa! Con nhặt bỏ vào thùng rác
đi!
(41) a.
??Trước mỗi kỳ thi, con học bài đi!
b. Ăn xong rồi, con học bài đi!
(Và bối cảnh của những câu (a) trên đây hoàn toàn thích hợp với hãy.)
Thật ra, cũng có thể sử
dụng đi cho những vị từ có ngoại diên
rộng, nhưng ngữ cảnh trực tiếp phải đủ rõ để bảo đảm tính quan yếu của phát
ngôn [5] [6] [8] [9]: khi người nói dùng đi
để thúc giục trong một ngữ cảnh nhất định, người nghe sẽ nhận ra, với nỗ lực ít
nhất, cái hành động cụ thể mà người nói yêu cầu. Chẳng hạn, những phát ngôn như
sau:
(42)
(Một người muốn bạn chạy ra căn tin mua cà phê)
–
"Cậu chịu khó đi!"
(43)
(Bà mẹ nói với con khi thấy con ra khỏi nhà mà vẫn để máy
lạnh chạy)
–
"Con tiết kiệm đi!"
(44)
(Một người muốn bạn bỏ rượu)
–
"Cậu giữ gìn sức khỏe của mình đi!"
(45)
(Một cô giáo đưa ra lý do để học sinh đừng bỏ học)
–
"Em cố gắng vì bố mẹ đi!"
Ở những tình huống trên (cùng với những phát ngôn đi trước có thể có để
tạo thành ngữ cảnh trực tiếp), từ lời yêu cầu của người nói chắc chắn người
nghe sẽ nhận ra hành động cần thiết: ở (42) người nghe hiểu là cần làm hành động
"đi mua cà phê", ở (43) hiểu là cần "tắt máy lạnh", ở (44)
hiểu là cần "bỏ rượu", ở (45) hiểu là cần "tiếp tục học".
Như vậy, đi thường
không dùng để yêu cầu những hành động “chung chung”. Nhưng nếu ngữ cảnh trực tiếp
đủ thỏa mãn, người nghe cũng có nhận ra hàng loạt “việc” có thể có để đáp ứng
yêu cầu của người nói (khác với các ví dụ (42) – (45), ở đó chỉ có một hành động
cụ thể được yêu cầu – theo nhận thức của người nghe). Chẳng hạn:
(46)
Mười sáu tuổi rồi, em bớt trẻ con đi!
(47)
Anh yêu/chiều/tôn trọng em đi!
Câu (46) cô chị có thể dùng để
yêu cầu cô em thôi đi đứng, nói năng, cư xử, vô tư như trẻ con; câu (47) cô gái
có thể dùng để yêu cầu chàng trai có hành động hay thái độ gì đó thể hiện tình
yêu/sự chiều chuộng/sự tôn trọng (có thể tặng quà, âu yếm, nói năng, mua sắm,
làm việc nhà…).
Trong khi đó, như đã nói ở trên, hãy thường kêu gọi (i) một hành động (hay nói rộng hơn, một phản ứng thuận theo yêu cầu) không hạn định,
nghĩa là người nghe có thể đáp ứng bằng một hay nhiều hành động cụ thể theo chọn
lựa của mình (sao cho thỏa mãn yêu cầu mà người nói đưa ra); nhưng cũng có thể
kêu gọi (ii) một hành động cụ thể, duy nhất.
Ví dụ cho trường hợp (i):
(48)
Các em hãy nỗ
lực học tập!
(49)
Các bạn hãy
giữ gìn sức khỏe!
(50) Xin quý vị hãy yên tâm và hãy tin tưởng
vào Hội đồng quản trị!
(51) Chúng ta hãy vì tương lai thế
hệ trẻ!
(52) Hãy cẩn thận!
Đáp ứng lời kêu gọi ở (48) có
thể là một loạt hành động, không giới hạn thời gian, chẳng hạn dành nhiều thời
gian học thuộc bài, làm đầy đủ bài tập, ôn tập cẩn thận, v.v.; ở (49) có thể là
tập thể dục mỗi ngày, ăn uống hợp vệ sinh, v.v.; ở (50) có thể là không rút vốn,
không phản đối, không chỉ trích, v.v.; ở (51) và (52) có thể bao gồm vô số hành
động khác nhau.
Nếu nội dung lời kêu gọi là một hành động cụ thể, duy nhất (trường
hợp (ii)) thì hành động này vẫn mang ý nghĩa/kết quả vượt ra ngoài phạm vi
thông thường của nó hoặc vẫn được hiểu là hành động không hạn định (khác với đi). Thử so sánh các câu sau:
(53) a. Vì đội bóng, hãy nắm chặt tay nhau!
b. ?Vì đội bóng, nắm chặt tay nhau đi!
(54) a. Con hãy rửa tay trước khi ăn!
b. Đến giờ cơm rồi, con rửa tay đi!
(55) a. Trước khi ra về, các em hãy tắt đèn, tắt quạt!
b. Các em tắt đèn tắt quạt đi
(rồi về)!
Các câu (a) có thể được hiểu
là lời kêu gọi cho một hành động cụ thể, trước mắt (“nắm tay nhau”, “rửa tay”, “tắt
đèn tắt quạt”) nhưng ý nghĩa của nó vẫn rộng hơn so với đi: “nắm chặt tay nhau” nghĩa là đoàn kết lại, “rửa tay” và “tắt
đèn tắt quạt” là hành động được yêu cầu làm không chỉ một lần.
Tương tự hãy, đi cũng có thể
xuất hiện trong những phát ngôn mà ở đó không có hành động nào được yêu cầu cả,
vì vị từ đi cùng với nó biểu thị một
thái độ hay trạng thái tinh thần.
(56)
Anh bình tĩnh đi!
Chuyện đâu còn có đó.
(57)
Chị yên tâm đi!
Tôi sẽ lo chuyện này cho chị.
(58)
Các bạn quên chuyện
cũ đi!
Đằng sau những vị từ trên vẫn
có một hành động không hiển ngôn: “hãy
+ V”/“V + đi” là yêu cầu cố gắng làm
gì đó để giữ hoặc để có trạng thái V.
Hãy hoặc đi dùng để tạo ra những phát ngôn yêu cầu
“làm” cái gì đó. Do vậy, nó không thể dùng trong các phát ngôn yêu cầu không làm.
(59)
*Các bạn hãy
đừng/không lãng phí thời gian! (ss:
Các bạn hãy tiết kiệm thời gian!)
(60)
*Em đừng/không đi
học trễ đi! (ss: Em đi học (sớm)
đi!)
Do phân biệt nhau về nghĩa, hãy
và đi có thể cùng hiện diện trong một
cấu trúc:
(61) Ai không đồng ý thì hãy nói đi!
(62) Anh hãy làm theo ý tôi đi!
(63)
Con hãy xin lỗi bạn đi!
Khi cả hai cùng có mặt, có thể
sẽ có những câu thiếu tự nhiên, không thể quy vai trò ngữ nghĩa và ngữ pháp về
cho hãy hoặc đi([7]):
(64)
?Hãy quan tâm
đến người khác đi!
(65)
?Các bạn hãy
tôn trọng luật pháp đi!
(66)
?Làm bài xong rồi à? Con hãy đi chơi đi!
Theo quan sát của chúng tôi, đây
là hiện tượng trùng ngôn (tautogogous), có thể thấy ở khẩu ngữ, khó có thể xem
là chỉn chu trong các phong cách khác.
Đi thường dùng để thúc giục
người nghe thực hiện một hành động, nhưng nếu hành động đó trên thực tế đã diễn
ra hoặc sắp diễn ra thì đi có thể được
dùng để yêu cầu người nghe tiếp tục hành động – dĩ nhiên, khi yêu cầu tiếp tục
một hành động đang hoặc sắp diễn ra thì có tiền giả định rằng hành động đó đang
gặp trở ngại, có nhiều khi trở ngại đó chính là sự hiện diện của người nói (chẳng
hạn, khi người nói đến nhà làm gián đoạn bữa cơm của người nghe). Trường hợp
này thường có sự trợ giúp của vị từ tình thái cứ trước vị từ nội dung chính. Ví dụ:
(67)
Anh (cứ) ăn
xong bữa đi!
(68) Anh cứ nói đi!
Nếu vị từ nội dung là một vị từ tư thế, trạng thái hoặc quá
trình, “cứ + V + đi” sẽ là lời yêu cầu giữ hoặc không thay đổi tư thế, trạng thái,
quá trình. Chẳng hạn:
(69) Các em cứ ngồi đi!
(70) Cậu cứ tin cô ta đi!
(71)
Em cứ khóc
đi!
Đi có thể tạo thành một
yêu cầu nhưng về thực chất là một phát ngôn thách thức, đe dọa (thường tổ hợp với
“... thì biết!”, “... rồi biết/coi/nói!”, “có giỏi/ngon thì..!”).
(72) Anh tưởng nằm bệnh viện vài ngày là dễ chịu lắm à? Vào đó đi thì biết!
(73) Chuyện đó không dễ đâu! Mày làm đi
rồi nói!
(74)
Nó là em tôi!
Anh (có giỏi thì) đụng nó đi!
Đi có thể kết hợp với mà ở sau tạo thành tổ hợp "…đi mà!", có tác dụng “mềm hóa” lời
thúc giục, vì mà bổ sung sắc thái khẩn
cầu cho lời thúc giục.
(75) Có chuyện gì thì em nói đi mà!
(76)
Chị bỏ
qua đi! Bỏ qua đi mà!
Đi có thể làm thành một
phát ngôn độc lập về ngữ pháp (tất nhiên phải có một nội dung yêu cầu được nêu
trước đó hoặc ít nhất phải có tình huống cho phép hiểu như vậy).
(77)
Mua cho em cái này đi! Đi! Đi!
4. Nói thêm một chút về nhé
Nhé (có thể có dạng thức
ngữ âm khác: nghe/nhe/nha) là ngữ khí
từ cuối câu, vốn được người nói dùng để yêu cầu người nghe chấp nhận đề nghị của
mình;
Do vậy, nhé có thể có
mặt trong các phát ngôn nhằm mục đích chào hỏi, xin phép, mời mọc. Về phong
cách, nhé có sắc thái thân mật, suồng
sã nên ít xuất hiện trong bối cảnh trang trọng; nếu dùng với người lớn hơn (bố,
mẹ, anh, chị, nhưng khó có thể là thầy giáo, ông giám đốc), thường phải kèm
theo đại từ gọi người đối thoại: "…nhé
mẹ!", "…bố nhé!".
(78) Anh ở chơi. Tôi về nhé!
(79) Em đi chơi nhé!
(80) Anh đi uống cà phê với tôi nhé!
(81)
Chú cho cháu đi với, nhé chú!
Điểm quan trọng nhất phân biệt với hãy
và đi là, trong các phát ngôn sử dụng
nhé, người phải thực hiện hành động
có thể chỉ là người nói (vd (78) và (79)) chứ không phải người nghe.
Nhé cũng có thể được
dùng để yêu cầu, nhưng không phải như một mệnh lệnh mà như một đề nghị, dặn dò, nhắn nhủ. Hay nói cách
khác, nhé biểu thị một yêu cầu thực
hiện vào một lúc nào đó trong tương lai, khi điều kiện cho phép. Một yêu cầu
mang tính chất dặn dò, nhắn nhủ thì
không thể thay bằng đi.
Xét hai câu sau:
(82) Chị mua cho em mấy con cá nhé!
(83)
Chị về sớm nhé!
Hai câu trên không thể dùng đi, vì là lời dặn dò. Nếu thay nhé bằng đi thì điều kiện sử dụng đã thay đổi: nó không được dùng như một lời
dặn dò nữa.
Các câu sau đây hầu như không thể dùng đi:
(84)
(Khi nào) Đến nơi, anh gọi cho tôi nhé/??đi!
(85)
Người ta mang hàng đến thì anh trả tiền nhé/??đi!
(86)
Trước khi đi học,
con nhớ rửa mặt, thay quần áo nhé/??đi!
Do hãy, đi, nhé có sự
khác biệt về ý nghĩa, chúng có thể tổ hợp: “... đi nhé!”, “hãy... nhé!”.
Ví dụ:
(87)
Chúng ta hãy
bỏ qua chuyện cũ nhé!
(88)
Các em
chuẩn bị đi nhé!
Tuy nhiên, có một vấn đề rất quan yếu xét về mặt cấu trúc nói chung, về
tầm tác động của nhé nói riêng, đó là
không phải cả ba yếu tố ngang hàng nhau: nhé
gánh toàn bộ sức nặng của thành phần đi trước, có thể biểu thị "[…(hãy) V (đi)] nhé!".
Lý do: một phát ngôn có nhé
có thể diễn giải như sau: "X nhé!"
nghĩa là "Tôi đề nghị/yêu cầu anh chấp nhận X" (trong đó
"X" là một ngữ vị từ hoặc một cấu trúc trần thuật hoàn chỉnh). Như vậy,
trong hai cấu trúc có độ phức khác nhau vai trò của nhé vẫn không có gì thay đổi:
(89)
Em đi chơi nhé!
(90)
Chị cho em đi chơi nhé!
"X"
ở (89) là "Em đi chơi", ở (90) là "Chị cho em đi chơi". Nói
rõ hơn, có thể diễn giải (89): [Em đề nghị chị chấp nhận đề nghị "Em đi
chơi"] và (90): [Em đề nghị chị chấp nhận đề nghị "Chị cho em đi
chơi"].
Điều vừa nói giải thích cho hai phát ngôn đối ứng sau đây:
(91)
A: – Chào anh!
Tôi về nhé!
B: – Vâng, anh về nhé!
Ở phát ngôn của
A, ta có: [Tôi đề nghị anh chấp nhận đề nghị "Tôi về"]; ở phát ngôn của
B, ta có [Tôi đề nghị anh chấp nhận đề nghị "Anh về"]. Và ta có hai
phát ngôn khác nhau về lực ngôn trung: phát ngôn của A là một lời chào hoặc xin
phép, còn phát ngôn của B là một lời nhắn nhủ.
Như một
hệ quả, những phát ngôn ngôn hành (performative) mà có mặt nhé (như "Xin lỗi nhé!",
"Cảm ơn nhé!") thì không
còn tính ngôn hành nữa; vì lúc này nó chỉ biểu hiện ý (người nói) đề nghị/mong
muốn người nghe chấp nhận đề nghị "xin lỗi", "cảm ơn" của
mình chứ không phải là thực hiện hành động "xin lỗi", "cảm
ơn" nữa.
* *
*
Như vậy, cái gọi là "câu mệnh lệnh" trong tiếng Việt,
thật ra, là một cấu trúc trần thuật, được đánh dấu chủ yếu bằng ngữ điệu và một
số yếu tố tình thái. Làm rõ những đặc trưng ngữ pháp và ngữ nghĩa của các yếu tố
tình thái là một việc hết sức khó khăn, vì nó liên quan trực tiếp đến góc nhìn
của người nói khi đưa ra phát ngôn. Những miêu tả trên đây là những biểu hiện
mang tính xu hướng hơn là những tiêu chí khu biệt hãy và đi.
Tuy nhiên, khảo sát nhóm đối tượng này là một việc làm hữu ích đối
với hoạt động dạy tiếng.
Tài liệu tham khảo:
1. Cao Xuân Hạo 1991. Tiếng
Việt, sơ thảo ngữ pháp chức năng. Nxb KHXH. H.
2. Diệp Quang Ban 2012. Ngữ pháp tiếng Việt – tập 2. Tái bản lần thứ 17. Nxb GDVN. H.
3.
Lê Thị Minh Hằng 2013. "Khi nào" giả định hay
hiện thực? Tc Ngôn ngữ và đời sống, số
12. H.
4. Nguyễn Anh Quế 1988. Hư từ trong tiếng Việt hiện đại. Nxb KHXH. H.
5. Nguyễn
Vân Phổ 2005. Ngữ cảnh và lời dẫn trong
hội thoại - nhìn từ lý thuyết quan yếu, Tc Ngôn ngữ, số 4, H.
6. Seiji Uchida, 1997. Immediate contexts and reported
speech, UCL Working Papers in Linguistics
9.
7. Trần Trọng Kim (et al.) (không rõ năm). Việt Nam văn phạm. In lần thứ 3. Nxb Tân
Việt. SG.
8. Wilson Deirdre, 1998, Linguistic structure and
inferential communication, in Caron, Bernard (ed.) Proceedings of 16th International Congress of Linguists (Paris,
20-25 July 1997), Pergamon, Oxford: Elsevier Sciences.
9. Wilson Deirdre, 1999, Relevance and Relevance Theory,
in R. Wilson & F. Keil (eds) MIT Encydopedia
of the Cognitive Sciences, MIT Press, Cambridge MA: 719-722.
[1] David Crystal 1992, An Encyclopedic - Dictionary of Language and
Languages, Penguin Books, London.
[2]
Cao Xuân Hạo đã chỉ ra sự bất cập của cách phân loại theo “mục đích nói” này.
Theo ông, đối với tiếng Việt có thể căn cứ vào thuộc tính cấu trúc cú pháp để
phân làm hai loại lớn: câu trần thuật và câu nghi vấn; và căn cứ vào hình thức
có thể xem câu "mệnh lệnh" là một tiểu loại câu trần thuật với sự
khác biệt về tình thái [1: 211]. Khi định nghĩa về thức (mood), David cũng cho
rằng thức được quy về tình thái (modality) khi nó không liên quan đến biến cách
(ibid.).
[3] Thuật
ngữ “cầu khiến” có lẽ rộng hơn, nhưng thuật ngữ này thường được dùng để chỉ những
cấu trúc trong đó đối tượng của vị từ thứ nhất là hành thể của vị từ thứ hai,
kiểu như "Mẹ tôi bảo tôi đi", "Nó khuyên tôi làm".
[4] Ở quân đội chẳng hạn,
trong những khẩu lệnh mang tính "mệnh lệnh" thực sự không bao giờ có
mặt hãy: không thể nói "Tiểu đội
chú ý: Hãy nghiêm!".
[5] Ở những bối cảnh này và những
bối cảnh tương tự (chẳng hạn: "Một người vì mọi người, mọi người vì
một người", "Anh ấy đã vì
tôi thì tôi không thể bỏ rơi anh ấy", v.v.) có lẽ nên giải thuyết vì là một vị từ thì hợp lý hơn.
[6] Do nội dung ngữ nghĩa của
cả phát ngôn đã đủ rõ, ba yếu tố này không nhất thiết phải có mặt đồng thời.
[7]
Về ngữ pháp, không thể biết (i) đây là sự kết hợp
của hai cấu trúc riêng biệt, cấu trúc 1: “Hãy
+ V”, cấu trúc 2: “Đi!”; như vậy, ta
có: “Hãy V! Đi!” (xem thêm vd (77) bên dưới), nghĩa là nó được hình thức hóa
như là một cấu trúc thống nhất “Hãy V
đi!”; hoặc (ii) đây là kết quả của hiện
tượng “chập cấu trúc”: [“Hãy + V” + “V + đi!”] → “Hãy V
đi!”.
Xin chào tiengviet blogspot,
ReplyDeleteNhững bài viết của bạn thật sự rất xác đáng và có ích với người làm việc nhiều về tiếng Việt như mình. Mình có một vài trường hợp băn khoăn về tiếng Việt mà không biết phải tìm hiểu ở đâu, mong bạn có thể bớt chút thời gian giải thích.
- Ở bài về nhóm từ này kia ấy đó bạn đã phân biệt rất cụ thể và tường tận 2 từ "ấy" và "đó". Mình muốn hỏi liệu trường hợp "đó" và "đấy" có sự phân biệt không? Và cách nói "từ ấy/từ đó (trong tôi bừng nắng hạ)", hay "trong ấy" và "trong đó" có tương đương nhau không? Hoặc từ "ấy" khi để nói một cách không rõ ràng, ví dụ: "sun (tiếng Anh) là gì hả cậu?" "Là ấy í, mặt trời í" thì "ấy" ở đây mang nghĩa và sắc thái gì?
- Trong tiếng Việt khi nói thường có rất nhiều từ "í", vd: "Nó đang làm gì í, tôi chả biết" hoặc "Anh ta đã nói thế í/chứ gì", "Cái nhà đấy to lắm í", "Anh í (ấy) bảo là đang bận". Có người nói "í" tương đương với "ấy" nhưng đọc khác đi, mình không thấy thoả đáng lắm. Và "í" cũng không giống với "đấy". Bạn có thể cắt nghĩa giúp được không?
- Mình còn băn khoăn về một số từ như phép màu hay phép mầu (màu nhiệm hay mầu nhiệm), mình rất bất ngờ vì từ điển tiếng Việt lại dùng "mầu nhiệm" trong khi không thấy mấy ai viết vậy. "Chả" và "chẳng" có tương đương không? Vì sao có "chẳng hạn", "chẳng may" nhưng không ai nói "chả hạn" "chả may"? "Nhẽ" và "lẽ" có tương đương không? Chả nhẽ, chả lẽ, chẳng nhẽ, chẳng lẽ, có lẽ, có nhẽ có giống nhau không? "Thỉnh thoảng" là từ chuẩn nhưng sao lại có "thi thoảng"? "Hàng ngày" và "hằng ngày", cái nào đúng? Từ điển có "ân huệ" nhưng mình thấy đều dùng nhiều là "ơn huệ"
Trên đây là một vài trong số những điều mình vẫn thắc mắc rất lâu rồi. Mong được giải đáp giúp.
Có lẽ để giải thích hết những câu này sẽ cần một hoặc nhiều bài dài, nên mình chỉ mong bạn sẽ nhắc đến chứ không cần giải thích tường tận ngay lập tức.
Xin cám ơn tiengviet blogspot rất nhiều.
- í thật ra là cách phát âm nhược hóa (không có trọng âm) của "ấy". Thông thường người Việt phát âm từ này rất nhẹ, khg có trọng âm nên giống như "í", hoặc giống dấu hỏi ("ảnh", "chỉ") của Nam bộ. Phát âm "ấy" mà có trọng âm (như trên tivi, phim) không phải là tiếng Việt tự nhiên, chỉ là "đọc", khg phải "nói".
Delete- đấy và đó hầu như giống nhau hoàn toàn, chỉ là phương ngữ. Thật ra, trước đây mình có phát hiện được một trường hợp dùng "đo", không dùng "đấy" được, nhưng khg ghi lại nên quên mất rồi.
- Về chính tả, lẽ ra phải phân biệt: "hằng ngày", "hằng giờ" (Tôi tập thể dục hằng ngày) với "hàng ngày", "hàng giờ" (Tôi chờ anh hàng giờ rồi, Tôi mất hàng ngày trời để...). Nhưng hiện nay "hằng" thường được viết thành "hàng".
- "mầu nhiệm" và "màu nhiệm" chỉ là vấn đề chính tả thôi. "mầu" được xem là chuẩn, "màu" là phương ngữ.
- "Chẳng" và "chả", "chưa" và "chửa", "thỉnh thoảng" và "thi thoảng" chỉ là biến âm.
Xin lỗi vì hai năm mới trả lời. Thật ra, vì bận, đã lâu tôi không vào blog.
những tữ bạn hỏi chỉ là cách nói vùng miền thôi
DeleteNhóm từ độ, tầm, chừng, khoảng phân biệt nhau thế nào?
ReplyDeleteTrường hợp "đó" và "đấy" mình có vd là: "Đang làm gì đấy/đó?"; "Đấy là", "đó là" và "đây là" hình như có khác nhau. Thường nghe "đấy là A (chứ không phải B)", "đấy là tại (...)", hình như nếu thay bằng "đó" nghĩa cũng khác, mà "đây" cũng lại khác. Thật không biết nên giải thích ra sao :(.
ReplyDeleteTrong "Đang làm gì đó/đấy?" thì đó/đấy là ngữ khí từ hay tiểu từ/trợ từ cuối câu đánh dấu tính hiện thực của "đang làm".
DeleteNgười ta chỉ hỏi như vậy khi thấy/nghĩ người kia "đang làm" một việc gì đó.
Thấy người kia đang nhai thì hỏi "Anh ăn gì đó?"